Với tôi, tôi coi thầy là một người anh chân tình và một người thầy về học thuật mà học mãi vẫn chưa hết kiến thức về lí luận ngôn ngữ và phép tiếp cận Việt ngữ học.

Gần nửa thế kỉ trước, tôi gặp gỡ thầy trong một cảnh huống hoàn toàn không vui của thầy, thầy đã bị treo giáo án dài hạn vì có dính dáng vào một nhóm cán bộ và sinh viên bị kỉ luật ở đại học sau vụ tờ báo tường ở Trường Đất Mới liên quan đến Nhân văn - Giai phẩm.

Nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo (1930-2007)

GS Cao Xuân Huy, thân phụ của thầy, đến lớp tôi giảng Cổ văn, phong cách rất lạ, ông giống như một đạo sĩ. Mọi người xì xào là thầy có người con trai cực giỏi, dạy ở trong khoa nhưng nay chuyển làm phiên dịch viên. Chúng tôi tò mò muốn biết về người đó. Một hôm ở cư xá đại học tại làng Láng thượng, tôi theo một anh trong lớp đến câu lạc bộ của các thầy xem đánh bóng bàn. Tôi để ý một người tầm thước, điển trai, mặc bộ quần áo ka ki khá chỉn chu, chân đi hơi cà nhắc, cầm vợt khá chắc tay và thiên về lối đánh phòng ngự. Vừa hết séc bóng, anh cầm ngay một cuốn sách ngoại văn với cây bút chì và tờ giấy lui ra một góc lúi húi đọc và ghi chép. Anh bạn ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Ông Cao Xuân Hạo đấy, giỏi ngoại ngữ cực, đang dịch Chiến tranh và Hoà bình, chuyên dịch lúc chờ lượt bóng đấy!”. Tôi cảm thấy hâm mộ anh và muốn được “đến gần” nhưng chỉ là một sinh viên giữa chốn của các thầy nên chả biết làm cách nào.

Thế rồi tôi đã có một dịp. Cận hè năm 1962, lớp chúng tôi đi thực tế ở Hà Bắc, trong mấy tuần chúng tôi có nhiệm vụ cùng với nông dân các làng Quan họ để sưu tầm, ghi chép các ca từ của dân ca Quan họ, nhất là những làn điệu cổ. Chúng tôi rất hăng hái nhưng ú ớ về phương pháp nên ghi trùng lặp với nhau rất nhiều. Một hôm, ở huyện Tiên Du, trời nắng chang chang, chúng tôi bỗng thấy thầy Đinh Gia Khánh và thầy Hạo đến chỗ nhóm tôi. Đi tay không, đầu không mũ nón, thầy vác vai một cái đàn ghi-ta gỗ đã cũ. Sau khi ăn cơm chiều với chúng tôi, thầy Khánh, chủ nhiệm lớp, kiểm tra công việc và dặn dò chúng tôi cách sưu tầm và ghi chép. Thầy Hạo mang đàn ra góc sân ngồi đánh, thầy căn đi căn lại một làn dân ca rất lạ và khó. Bỗng thầy gọi mấy đứa tôi và chỉ vào tôi: “Cậu này hát giùm mình một đoạn nhé, cầm lấy tờ giấy mà nhớ lời”. Tôi hát được một đoạn còn thầy thì gõ nhịp dò theo, được một đoạn nữa thì tôi đứt hơi. Thầy bảo: “Cậu hát tồi quá, sao lại biến dân ca thành lối hát phong trào hiện nay thế?”. Tôi ngượng ngập thưa: “Em có biết hát dân ca đâu, cả hát mới cũng chả ra làm sao, thầy bỏ qua cho”. Anh cười và giải thích: “Tôi có xem tập lời ca các cậu chép. Sai tuốt cả rồi! Có hiểu sao không? Các cậu đã nhầm lẫn giữa sưu tầm thơ ca dân gian với ghi lời ca theo làn điệu dân ca. Những gì các cậu ghi được là thơ ca dân gian chứ không phải là bài hát Quan họ. Phải ghi lại trung thực những gì các cậu nghe được, cái người ta đã cải biến ca dao, thơ dân gian thành ca từ, đấy mới là cái cơ bản. Quan họ đã chế biến cực giỏi cái nọ từ cái kia, làm khoa học phải biết mình muốn cái gì chứ?”. Chúng tôi nhìn nhau trách móc nhưng đã sáng ra. Thế là có thêm bài học đầu đời về phương pháp làm tư liệu và đi điền dã.

Giáo sư Cao Xuân Huy, thân phụ của thầy, đến lớp tôi giảng Cổ văn, phong cách rất lạ, ông giống như một đạo sĩ. Mọi người xì xào là thầy có người con trai cực giỏi, dạy ở trong khoa nhưng nay chuyển làm phiên dịch viên. Chúng tôi tò mò muốn biết về người đó. Một hôm ở cư xá đại học tại làng Láng Thượng, tôi theo một anh trong lớp đến câu lạc bộ của các thầy xem đánh bóng bàn. Tôi để ý một người tầm thước, điển trai, mặc bộ quần áo kaki khá chỉn chu, chân đi hơi cà nhắc, cầm vợt khá chắc tay và thiên về lối đánh phòng ngự. Vừa hết séc bóng, anh cầm ngay một cuốn sách ngoại văn với cây bút chì và tờ giấy lui ra một góc lúi húi đọc và ghi chép. Anh bạn ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Ông Cao Xuân Hạo đấy, giỏi ngoại ngữ cực, đang dịch Chiến tranh và Hoà bình, chuyên dịch lúc chờ lượt bóng đấy!”. Tôi cảm thấy hâm mộ anh và muốn được “đến gần” nhưng chỉ là một sinh viên giữa chốn của các thầy nên chả biết làm cách nào.

Thế rồi tôi đã có một dịp. Cận hè năm 1962, lớp chúng tôi đi thực tế ở Hà Bắc, trong mấy tuần chúng tôi có nhiệm vụ cùng với nông dân các làng Quan họ để sưu tầm, ghi chép các ca từ của dân ca Quan họ, nhất là những làn điệu cổ. Chúng tôi rất hăng hái nhưng ú ớ về phương pháp nên ghi trùng lặp với nhau rất nhiều. Một hôm, ở huyện Tiên Du, trời nắng chang chang, chúng tôi bỗng thấy thầy Đinh Gia Khánh và thầy Hạo đến chỗ nhóm tôi. Đi tay không, đầu không mũ nón, thầy vác vai một cái đàn ghi-ta gỗ đã cũ. Sau khi ăn cơm chiều với chúng tôi, thầy Khánh, chủ nhiệm lớp, kiểm tra công việc, dặn dò chúng tôi cách sưu tầm và ghi chép. Thầy Hạo mang đàn ra góc sân ngồi đánh, thầy căn đi căn lại một làn dân ca rất lạ và khó. Bỗng thầy gọi mấy đứa tôi và chỉ vào tôi: “Cậu này hát giùm mình một đoạn nhé, cầm lấy tờ giấy mà nhớ lời”. Tôi hát được một đoạn còn thầy thì gõ nhịp dò theo, được một đoạn nữa thì tôi đứt hơi. Thầy bảo: “Cậu hát tồi quá, sao lại biến dân ca thành lối hát phong trào hiện nay thế?”. Tôi ngượng ngập thưa: “Em có biết hát dân ca đâu, cả hát mới cũng chả ra làm sao, thầy bỏ qua cho”. Anh cười và giải thích: “Tôi có xem tập lời ca các cậu chép. Sai tuốt cả rồi! Có hiểu sao không? Các cậu đã nhầm lẫn giữa sưu tầm thơ ca dân gian với ghi lời ca theo làn điệu dân ca. Những gì các cậu ghi được là thơ ca dân gian chứ không phải là bài hát Quan họ. Phải ghi lại trung thực những gì các cậu nghe được, cái người ta đã cải biến ca dao, thơ dân gian thành ca từ, đấy mới là cái cơ bản. Quan họ đã chế biến cực giỏi cái nọ từ cái kia, làm khoa học phải biết mình muốn cái gì chứ?”. Chúng tôi nhìn nhau trách móc nhưng đã sáng ra. Thế là có thêm bài học đầu đời về phương pháp làm tư liệu và đi điền dã.

Những bài học không giáo án

Tháng lại, ngày qua, bộ sách Chiến tranh và Hoà bình đã xuất bản và chúng tôi đã say mê đọc nó ở thư viện (lấy tiền đâu để mua khi đang là sinh viên nghèo). Chúng tôi thấy một thứ văn phong cực kì trong sáng bằng tiếng Việt, dường như người dịch đã gắng chuyển đến mức tối đa ngôn ngữ nguyên gốc. Đầu năm 1964, Nhà xuất bản Văn học cho in cuốn tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của Dj. Aitmatov “Truyện núi đồi và thảo nguyên” do thầy Hạo dịch là chính. Truyện cực hay, đầy chất thi vị và mượt mà ngôn từ. Ít lâu sau tập sách bị phê bình là có “nhiễm xét lại”(!) nên không bán nữa (nay thì sách được khen hay rất nhiều). Thầy Hạo sau đó đã thở dài nhẹ nhõm bảo với chúng tôi: “May cho mình đã thoát được bản án thứ hai vì tội dịch, đơn giản, sách thấy hay thì nhận dịch thôi. Vào thời điểm có tính lịch sử lúc đó, có vài truyện bị coi là “nhiễm xét lại”.

Thầy Cao Xuân Hạo trên bục giảng

Tôi tốt nghiệp đại học, được giữ lại trường cùng bộ môn Ngôn ngữ học và gần thầy suốt hơn mười năm, lúc đầu bộ môn do thầy Nguyễn Tài Cẩn làm Chủ nhiệm. Thầy là người nhìn rất xa và khách quan, nể trọng tài năng nên đã có lần nói với chúng tôi: “Tôi nói điều này hơi bất tiện, nhưng các ông nên tham khảo: nếu học làm tư liệu để nghiên cứu thì nên học tôi, còn muốn học lí luận ngôn ngữ thì nên tìm đến anh Hạo. Anh ấy giỏi lắm, chịu học và uyên bác. Anh Hạo tuy nay không được lên lớp, không dạy trò nhưng có thể dạy thầy, nên tìm đến anh mà học, còn Hán học theo kiểu ngôn ngữ học thì có lẽ sang nhà mà tìm anh Phan Ngọc”. Theo lời thầy, những năm tháng sơ tán ở rừng, chúng tôi vẫn tới lui chỗ thầy Hạo để thầy chỉ bảo. Một lần thầy bảo tôi: “Các bạn đừng gọi tôi là thầy. Tôi nay có được dạy đâu. Gọi thế mình không vui”. Tôi biết động chạm đến điều nhạy cảm sâu xa trong tâm can của thầy nên chia sẻ.

Trong mười năm, chúng tôi gọi thầy bằng anh, khi thì nghe anh thuyết giảng một vấn đề lí luận, khi thì chỉ nghe về một bài báo, và có khi chỉ vì có mấy bắp ngô nướng hay vài củ lạc gì đó. Anh vừa nuôi hai cháu vừa làm việc miệt mài. Có bao nhiêu kiến thức về lí thuyết cấu trúc luận đương thời thì hầu hết anh cung cấp cho chúng tôi, nhất là khi anh dịch xong cuốn sách đồ sộ: “Những khuynh hướng cơ bản của cấu trúc luận” của Gukhman và một số tài liệu trong Reading Linguistics và bảo tôi đọc, những chỗ khó hiểu anh nhẹ nhàng hướng dẫn cho chúng tôi. Nhưng anh không bằng lòng việc chúng tôi bám thầy để đọc tài liệu dịch mà khuyến khích và nhắc nhở chúng tôi cần học ngoại ngữ để tự đọc. Một lần tôi hỏi anh: “Anh Hạo ơi, bọn em muốn biết làm thế nào để học ngoại ngữ cho nhanh khá ạ”. Anh nhìn tôi bằng con mắt ngạc nhiên rồi thủng thẳng trả lời: “Cậu hỏi gì đấy? Học ngoại ngữ là học ngoại ngữ chứ còn làm sao nữa!. Tôi thấy ngượng và từ đó phải gắng sức học tiếng Nga cho kì đọc được các tài liệu chuyên môn đơn giản. Cũng về chuyện ngoại ngữ, tôi còn bị anh “sửa gáy” cho vài lần nữa. Đầu thập kỉ 70, đang chuẩn bị để đi học nghiên cứu sinh ở Liên Xô, tôi có một bài cần dịch ra tiếng Nga. Không đủ tự tin, tôi tìm đến anh Hạo ở Kim Liên và có lời nhờ anh. Anh hỏi tôi: “Cậu định trả công mình gì đấy?”. Tôi nói: “Em mời anh đi uống cà phê cho vui nhé”. Anh đồng ý ngay. Chúng tôi ra Quán Gió ngoài hồ Bảy Mẫu ngồi nhâm nhi cà phê với bánh ngọt. Gần chiều anh bảo tôi: “Tài liệu cậu nhờ đâu, đưa đây. Tôi vội mở túi ra đưa anh tập giấy. Liếc qua cái bìa, không mở ra xem, anh cuộn lại ngay và đưa lại cho tôi, nói gọn: “Cầm lấy, về mà dịch lấy. Nếu cậu mà nhờ tôi việc này thì buộc tôi phải xem lại trình độ của cậu, lâu nay tôi vẫn nghĩ khác về cậu!. Tôi ngượng đỏ mặt, chia tay anh. Tuần sau gặp anh, anh bảo: “Dịch xong chưa, đưa đây mình coi lại cho. Anh đã xem lại và chữa đỏ loè cả bài, nhưng toàn chữa phần diễn đạt bằng tiếng Việt trước khi chữa sang phần tiếng Nga. Anh bảo: “Tiếng Việt hay lắm, phải diễn đạt cho nó hay vào rồi hãy dịch gì thì dịch”. Từ năm 1979 anh cho phép chúng tôi gọi bằng thầy vì anh đã dạy ở Đại học Sư phạm được mấy năm.

zRồi lần nữa, cách đây mấy năm, tôi vào Sài Gòn và có dịp ăn tối với thầy. Trong bữa thầy nói một tràng tiếng Pháp, rồi quay lại hỏi tôi. Tôi cũng nói một câu tiếng Pháp thưa lại thầy rồi cầm lấy li rượu định uống. Thầy gạt tay tôi và nói: “Gượm đã! ông phát âm lại cho đúng hộ tôi cái tên chai Remy Martin rồi hãy uống. Tôi vừa nghe ông nói nó quê quá, thế nào ấy!”. Tôi lại ngượng và phát âm tới lần thứ… ba, bốn, thầy mới để tôi uống. Thầy Hạo là như thế, đã nói chuyện ngôn ngữ thì phải chính xác và sang trọng trở lên.

Dịch giả Cao Xuân Hạo trong một lần đi điền dã. Ảnh: sggp.org.vn.

Người thầy của tư duy học thuật và nhân cách cao quý

Trong hai mươi năm làm phiên dịch viên ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Cao Xuân Hạo và Phan Ngọc đã để lại hàng vạn trang dịch lí luận ngôn ngữ bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga. Trong số đó có những bản dịch bất hủ mà khó ai địch nổi như: “Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương” của Saussure, “Các phương pháp của Ngôn ngữ học cấu trúc luận” của Harris, “Những nguyên lí âm vị học” của Trubeskoj,… Còn trong làng văn chương thì khỏi nói, thầy là người phiên dịch giỏi hàng đầu. Tôi có hai người thầy về diễn đạt văn ngôn. Thầy Nguyễn Tài Cẩn thì viết rất đơn giản, chặt chẽ, chính xác và hơi “dân dã’. Thầy Cao Xuân Hạo thì viết có phần trau chuốt, cầu kì và sang trọng, thậm chí văn phong khoa học có lúc hơi kênh kiệu. Thầy bảo tôi: “Tôi thấy cậu viết có xu hướng tập theo lối anh Cẩn, tốt thôi, nhưng nhớ nhé, anh Cẩn viết nhìn bề ngoài thì đơn giản vậy thôi nhưng khó bắt chước lắm đấy, rất uyên bác và sang trọng đấy, nhất là rất khó bắt bẻ”. Tôi hiểu và học cả hai người trong cách diễn đạt mà mãi vẫn không xong.

Hai bậc giỏi giang, tài hoa lại rất nể trọng nhau. Khi nói với chúng tôi anh Hạo luôn coi mình chỉ là “môn đệ” của thầy Cẩn, còn thầy Cẩn thì lại nói: “Môn đệ à? Về lí luận đại cương thì ông Hạo biết hơn tôi nhiều! Nếu học thì phải học ông ấy. Ông ấy không được dạy sinh viên nhưng được dạy các ông. Nên gần ông ấy mà học!”. Quả thật những lúc như thế chúng tôi thấy hơi xấu hổ vì mình còn dốt mà lại đôi khi tự “huếnh”. Tôi hiểu nhân cách của thầy: Xuất thân trong một gia đình vọng tộc họ Cao Xuân phủ Diễn Châu, thầy rất thông minh và được đào tạo cơ bản từ bé, lại có năng khiếu ngoại ngữ và âm nhạc. Như mọi thanh niên “Tuổi xanh như lúa mai, đời thanh niên sáng tươi, thuở nay chinh chiến chờ đợi người” (Ca từ của nhạc sĩ Phạm Duy), thầy tình nguyện vào bộ đội mặt trận Bình Trị Thiên ba năm gian khổ. Sau hòa bình 1954 thầy vào học Đại học Sư phạm và tốt nghiệp xuất sắc năm 1956, rồi được giữ lại trường giảng dạy Ngôn ngữ học ở Đại học Tổng Hợp Hà Nội. Đồn rằng thầy tham gia nhóm “Nhân văn& Giai phẩm” thật ra không đúng, thầy chỉ liên quan đến tờ báo “Đất Mới” của nhóm sinh viên Văn khoa bị kỷ luật và thầy bị kỷ luật theo (1958). Thầy bình thản chịu kỷ luật (treo giáo án) không một lời oán than và làm tốt trách niệm được giao (phiên dịch viên), sống hòa thuận, vui vẻ với mọi người, được cảm mến. Năm 1976, thầy vào Sài Gòn làm nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Sư phạm cho đến lúc nghỉ hưu. Năm 1984, thầy được phong Phó Giáo sư. Chúng tôi muốn thầy được phong cao hơn nhưng thầy bảo: “Đi dạy học mà được thế này là tốt, là quý rồi”. Tất cả anh em trong ngành Ngôn ngữ học đều luôn gọi thầy là Giáo sư Cao Xuân Hạo với lòng ngưỡng mộ.

Trong nghiên cứu, cái giỏi của thầy Hạo là hay lật ngược vấn đề, không chịu theo lối mòn và khuôn sáo. Thầy cứ như bẩm sinh ra để làm ngôn ngữ học vậy. Có nhiều ý tưởng học thuật của thầy vị tất đã dễ chia sẻ, nhưng bình tĩnh lại, đặt nó vào hệ thống tư duy của thầy thì thấy hiểu được. Trong lập luận, thầy không phải là không có chỗ sơ hở, nhưng thầy cũng cầu thị trong trao đổi và biết cách biện minh. Mới làm việc dễ có cảm tưởng thầy “át” đối tác, nhưng trong câu chuyện và bản thảo thầy rất chú ý nghe để vừa suy ngẫm vừa trả lời hoặc tiếp nhận. Tôi có vài ba cuộc trao đổi thân tình và rất thật với thầy, ít nhất là trong vấn đề: “Nên để nguyên dạng hay phiên âm tên riêng nước ngoài”, “Cương vị chữ Nôm và chữ Quốc ngữ”, và khái niệm “dĩ Âu vi trung” trong Việt ngữ học, thì tôi thấy thầy là người dân chủ và sẵn sàng lắng nghe, nhưng cũng rất thích tranh luận. Có lúc trao đổi thầy bảo tôi: “Nghe cậu biện luận cũng có lí đấy, nhưng mình vẫn cãi được!”. Thầy phàn nàn với chúng tôi là trong ngôn ngữ học nước nhà lặng lẽ quá, không có tranh luận gì cả mà không có cọ xát thì làm sao tiến lên được. Tuy nhiên thầy cũng rất nghiêm khắc, sẵn sàng cho “mất điện” với những người trống rỗng mà lộng ngôn trong giới chuyên môn, biết chưa đến nơi đến chốn nhưng thích khoe khoang. Thầy đã viết: “Chứng vĩ cuồng không có cách gì chữa được. Không có cách gì lôi một con người ra khỏi cõi cực lạc mà họ đã đắm mình vào một cách hoàn toàn vô thức. Chính vì sự giác ngộ về sự vĩ đại của bản thân là hoàn toàn vô thức, cho nên không có cách gì chứng minh cho đương sự thấy rằng đó là một ảo giác. Phòng bệnh hơn chữa bệnh, nhất là một bệnh nan y như thế. Cách đề phòng duy nhất là làm sao các thế hệ đang lên không mắc vào cái hoạ ấy” (2000).

Cái cảm giác kiêu căng và khiêm nhường ở thầy dễ làm người ta lẫn lộn. Những ai có máu hiếu thắng thì chắc chắn cho rằng thầy kiêu ngạo, còn những ai đọc sách dịch, đọc các bài nghiên cứu và sách của thầy thì thấy thầy khiêm nhường, cầu thị và cực kì thận trọng. Câu cửa miệng của thầy là: “Ông xem hộ coi có chỗ nào chưa chính xác, chưa đạt không?”. Cuốn “Tiếng Việt - Ngữ pháp chức năng” (1991) là một đột phá học thuật, hay là thế mà thầy chỉ ghi là “Sơ thảo” và giải thích: “Mới đầu nghĩ được có thế thì ghi thế là phải rồi!. Tôi cho rằng cái lớn nhất trong tư duy khoa học của thầy là “Triệt để xuất phát từ bản ngữ” để giải quyết mọi vấn đề. Thầy học Saussure cái định lí này và vận dụng nhất quán, nhờ đó có những khám phá quan trọng, từ “Âm vị học tuyến tính” đến “Cương vị của Tiếng” rồi “Cấu trúc cú pháp cơ bản của tiếng Việt là cấu trúc Đề - Thuyết”,… Con người được coi là bẩm sinh làm Ngôn ngữ học đã viết về mình: “Riêng tôi bao giờ cũng tự nghĩ về mình như một người học trò vĩnh cửu, chưa bao giờ có ý nghĩ thôi học, một anh học trò của mọi người, từ những tác gia kinh điển của ngôn ngữ học đến các tác giả vô danh của kho tàng văn học dân gian, từ các thầy đã trực tiếp hay gián tiếp dạy tôi cho đến các bạn đồng nghiệp, trong đó có cả những người mang tiếng là học trò của tôi” (1998).

Từ khi thầy vào Sài Gòn (1976), tôi xa thầy và thỉnh thoảng mới có dịp gặp nhau, nhưng mỗi khi vào Nam là tôi tìm thầy ngay. Tôi mừng là thầy đã có chỗ làm việc ưng ý và đã trở lại bục giảng trên giảng đường các cấp học. Thầy dạy và truyền thụ rất nhiều, như để bù lại thời gian đã mất. Với tôi, thầy chưa bao giờ khen tôi cả, và cũng không thân theo nghĩa chí cốt. Nhưng tôi trọng thầy và hâm mộ thầy, còn thầy thì chân tình và coi tôi như một đàn em gần gũi. Tôi vui là khi viết xong cuốn sách nào thầy cũng sớm gửi cho tôi với lời đề tặng ân cần như một mong muốn chia sẻ.

Từ khi thầy vào Sài Gòn (1976), tôi xa thầy và thỉnh thoảng mới có dịp gặp nhau, nhưng mỗi khi vào Nam là tôi tìm thầy ngay. Tôi mừng là thầy đã có chỗ làm việc ưng ý và đã trở lại bục giảng trên giảng đường các cấp học. Thầy dạy và truyền thụ rất nhiều, như để bù lại thời gian đã mất. Với tôi, thầy chưa bao giờ khen tôi cả, và cũng không thân theo nghĩa chí cốt. Nhưng tôi trọng thầy và hâm mộ thầy, còn thầy thì chân tình và coi tôi như một đàn em gần gũi. Tôi vui là khi viết xong cuốn sách nào thầy cũng sớm gửi cho tôi với lời đề tặng ân cần như một mong muốn chia sẻ.

Khen thầy Hạo giỏi ngoại ngữ thì chả khác gì khen “Phò mã tốt áo”, nhưng như thầy nói, năng khiếu thì có đấy nhưng chỉ là một phần thôi, còn chủ yếu là say mê và khổ công tự học. Có lần Giáo sư Haudricourt và Giáo sư Condominas đã nghi ngờ thầy nói dối là chưa bao giờ đến Pháp khi hai ông khăng khăng rằng thầy nói tiếng Pháp của vùng Thượng Provence và ở đó đã lâu, còn các bạn Nga thì cũng cho rằng thầy đã ở đâu đó bên ấy một thời gian dài và đã có một vài cô bồ nào đó! Năm 1971, tôi có chân trong ban chiếu bóng của Khoa Ngữ văn, lần ấy mượn được hai tập phim: “Anh em nhà Caramazov” của Dostojevski, nhưng đến giờ chiếu lại chưa có bản thuyết minh tiếng Việt. Chị Bích Lộc (thuyết minh viên) rất lúng túng. May quá chúng tôi phát hiện ra thầy Hạo cũng ngồi trong đám khán giả nên cảm phiền thầy. Thầy Hạo bảo mua ngay cho mấy điếu thuốc thơm. Thầy cầm thuốc hút rồi ngồi vào phòng máy, nhìn lên màn ảnh và dịch đuổi theo lời các nhân vật nói trong phim. Chúng tôi phục lăn, còn thầy thì nhăn mặt nhận xét: “Lời trong phim này kì quá, chả giống gì lời thật của nhân vật trong nguyên bản tiểu thuyết cả”. Chúng tôi thì ngớ ra.

Kì thật thầy Hạo chỉ được xuất ngoại lần đầu khi đã ngoài 50 tuổi. Tôi nhớ năm ấy, trước đổi mới, thầy ra Hà Nội và đi ăn phở với tôi. Thầy thì thầm: “Một bà thầy nói với mình là sắp đến mình sẽ xuất ngoại, mình hi vọng là thế. Rồi ít lâu sau, thầy sang Nga, sang Tiệp thật vì một công vụ cho ngành. Thầy cũng là người tự trọng cao. Năm sang Pháp, đúng lúc Liên xô và Đông Âu sụp đổ, có người nghĩ rằng thầy sẽ “chạy” vì hợp môi trường và có thân nhân bảo lãnh. Nhưng thầy đã trở về nhà rất đúng hạn. Thầy kể là vé máy bay của thầy đặt bị trục trặc cần phải nán lại Paris ít ngày nữa để chờ. Thế là thầy xách va li ra thẳng sân bay, rút túi mua vé bay ngay một chiều bằng tiền mặt, mà vé đi như thế đắt gấp hai lần, miễn là về đúng hạn như đã hứa.

Với thầy Cao Xuân Hạo, ai chưa biết cũng nghĩ rằng thầy là một trang công tử, xuất thân “tiểu tư sản” học sinh, đàn hay, hát giỏi và lãng tử. Nhưng thầy lại vốn là “Bộ đội cụ Hồ” trong cả tuổi thanh xuân thời kháng Pháp. Mười chín tuổi, thầy vào quân đội, vác cây đàn ghi ta trên vai đi khắp Bình Trị Thiên khói lửa, đói rét, cơ hàn. Tôi biết thầy xao lòng nhất là những lúc nghe các ca khúc “Về miền Trung”, “Bà mẹ Gio Linh” của Phạm Duy, và nhất là bài “Bình Trị Thiên khói lửa” bi hùng của Nguyễn Văn Thương: “Hướng về Nam. Ai đã qua Đèo Ngang, đã sang Ba Rền, mến dòng sông Gianh, biết danh Luỹ Thầy,…”, nơi thầy đã để lại tuổi xuân ở đó trước khi trở thành nhà khoa học.

Ở Mĩ, một số nơi có tập quán người ta chọn ca một bài trong lúc tiễn đưa người quá cố, bài hát mà lúc sinh thời người ấy vẫn thường thích. Tôi ở xa không vào Nam được để tiễn đưa thầy Hạo, đám tang ở ta không có ai hát, nhưng tôi tin rằng ở cõi xa xăm lúc ra đi, thầy vẫn nhẹ nhàng nghe được giai điệu của bài ca: “Bình Trị Thiên khói lửa” mà tuổi thanh xuân thầy đã in dấu

                                                                   Hà Nội, mùa Đông 2007

                                                    Trích ghi chép: “Từ làng tôi đến làng đại học”