Nguyễn Minh Châu (tên khai sinh là Nguyễn Thí) sinh ngày 20/10/1930 trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Văn Thai (tên nôm là làng Thơi), xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Từ thời đi học, ông nổi tiếng một học sinh giỏi Toán. Năm 1945, ông tốt nghiệp Trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1/1950, ông học Trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh, sau đó gia nhập Quân đội, học Trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 - 1956, Nguyễn Minh Châu công tác tại Ban Tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc Sư đoàn 320. Những năm 1956 - 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hoá tại Trung đoàn 64 thuộc Sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học Trường Văn hoá Lạng Sơn. Năm 1962, ông về công tác tại Phòng Văn nghệ Quân đội, sau đó chuyến sang Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1972. Nhà văn Nguyễn Minh Châu qua đời vào ngày 23/11/1989. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.
Cuộc đời viết văn của mỗi người không chỉ bao gồm những ngày vui vẻ, những phút run ray trước trang báo còn thơm mùi mực, hoặc cuốn sách giấy trắng nõn nà, mà, giống như phần chìm của những tảng băng trôi, ẩn dưới những ngày vinh quang kia, còn cả cuộc đời lầm lũi làm việc, suy nghĩ, tranh cãi, biện luận, bàn nát việc này việc khác cốt tìm ra một hướng đi đúng đắn! Nhất là trong những ngày đầu, khi người ta mới bắt tay làm quen với nghề, có bao nhiêu chuyện phải đắn đo, bàn bạc. Trong những phút tưởng như lúng túng không cách gỡ nối ấy, hình như tự ta không đủ mà rất cần có thêm những người khác, để ta dò hỏi, họ giống như tấm gương, ta soi vào đấy, mà tự điều chỉnh.
May mắn cho tôi, trong giai đoạn học nghề ấy, tôi được công tác ở một trung tâm văn học rất mạnh là Văn nghệ Quân đội, ở đó, tôi tìm được hai người thầy mà cũng là hai người bạn vong niên là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Khải với tôi giống như một “cha đạo”. Ông đến đế chia sẻ với tôi ít điều đang nghĩ hoặc một ít nhận xét về người nọ người kia, nhất là đe kháo với tôi ít chuyện về Hội Nhà văn, là khu vực tôi biết ít, mà ông thì lại đang là một Uỷ viên Thường vụ, ông biết nhiều lắm. Nhưng nói cũng như viết ở Nguyễn Khải bao giờ cũng là một cách đế thuyết phục người đọc, và thường chỉ sau khi ông xong việc ra về, đối tượng ông vừa thuyết phục mới có dịp nhấn nha ôn lại đế hiểu điều ông vừa nói. Còn Nguyễn Minh Châu thì khác. Ông lầm rầm ngồi nói những chuyện tưởng như vu vơ mà ai làm nghề cũng phải chạm tới. Có vẻ nó là chuyện hình như ông đang phải nghĩ mà chưa tìm ra, nhưng chính vì thế, chuyện lại có sự hấp dẫn riêng. Và giải thích chuyện đó ra sao thì tuỳ ở cái tạng người nghe.
về cái làng nơi ông đã sinh ra và lớn lên, một vùng quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh: Bao giờ rỗi, tôi sẽ viết kỹ về làng tôi, một cái làng nó còn thiên nhiên thiên bấm lắm, dân chỉ biết đánh cá thôi về lại lên làng trên đổi bạc lấy rượu. Có anh rượu quá, chủ nó lột hết, chỉ để cho một cái quần mà về. Nghĩ cho cùng, một cái làng như làng tôi, lại nứt ra một thằng viết như tôi, kể cũng lạ.
về cách đi thực tế và lấy tài liệu: Có những người như ông A, ông B. khi đi thực tế, ghi thật nhiều thật kỹ... Tôi thì khác. Tôi ghi một phần thôi. Vừa ghi tôi vừa nghĩ. Chẳng hạn, gặp một người lính ở chiến trường ra, cái điều mình phải tập trung soi dọi là tìm xem giữa người lính ấy với bao nhiêu bạn đọc đang ở chiến trường và chưa ở chiến trường, có cái gì chung, thì phải làm bật lên bằng được. Rồi lại phải làm sao ghi lấy cả những kinh nghiệm cũ của mình nữa, những kinh nghiệm mình có từ lâu rồi nhưng không nhớ, giờ nhân gặp người lính kia, nó mới choàng dậy.
Những người có dịp sống ở Hà Nội, trong những năm từ 1975 về trước, hắn nhớ, bấy giờ đây là một thành phố rất lặng lẽ. Ngoài một vài chiếc Von-ga đen và một ít com-măng-ca, ô tô hồi ấy gần như không có. Và những Honda, Suzukỉ... cũng không hề có nốt, Hà Nội bấy giờ là thành phố của xe đạp! Mà cũng không ai phóng xe đạp vội vã, ngang ngược như sau này. Tất cả từ tốn chậm rãi, đúng mực và cũng là an phận nữa.
Riêng với khu vực chung quanh khu thành cố là doanh trại dành riêng cho bộ đội, thì đường phố nhiều lúc càng thanh vắng lạ.
Những buổi tối, nhất là quãng từ mười, mười một giờ trở đi, ngồi trên căn gác nhà số 4 Lý Nam Đe, nhìn sang những hàng sấu u u tối tối bên đường, có lúc anh em Văn nghệ Quân đội chúng tôi cảm thấy mình như đang lạc đến một xứ sở xa xôi nào, và ở đó, sự suy ngẫm về cuộc đời của người ta được trở nên hoàn toàn mà không bọn một chút vướng mắc nào cả.

Thời gian ấy, tôi mới chưa đầy 30 tuổi, chưa có gia đình riêng, nên đi đâu thì cũng về ngủ ở co quan. Còn Nguyễn Minh Châu lại gặp những trục trặc về nhà cửa (vợ con theo cơ quan đi sơ tán) nên cũng ăn cơm tập thể như tôi. Từ quãng độ 5 giờ, vác bát sang nhà ăn tập thế Báo Quân đội ăn cơm chiều, cho đến cả buổi tối, trước khi ngồi vào bàn viết, bao nhiêu là thời gian rỗi, có chán nhau đến mấy thì chúng tôi cũng cứ phải tán gẫu với nhau một lúc!
Thường thì ở nhà số 4 Lý Nam Đe này, không khí chuyện trò đã âm ỉ suốt ngày.
Song không phải ai cũng thích họp với đám đông, thậm chí, cũng một con người mình thôi, nhưng có lúc ngồi trong đám đông thấy hào hứng mà cũng có lúc cứ thấy bật ra lạc lõng. Có những câu chuyện mà chỉ khi ngồi đối mặt hai ba người, nói một cách thật từ tốn, thật chậm rãi với nhau, người ta mới thấm thìa hết ý nghĩa sâu xa của nó. Trò chuyện bấy giờ, trong hoàn cảnh gặp người tri kỷ, thật chả khác chi độc thoại.
Trong những buối tối yên tĩnh đó, tôi đã hỏi Nguyễn Minh Châu đủ chuyện lân mân.
- Sao có lúc anh như muốn tránh mọi người?
- Đã làm nghề này, mà lắm lúc cứ cảm thấy không gì ngại bằng phải sống cùng nhà với những thằng viết khác. Ngồi một mình lại nghĩ được nhiều chuyện.
- Hồi ở đon vị, anh nhìn những cây bút trên này thế nào?
- Lúc ấy chưa có ý niệm gì cả, chỉ thấy cái gì anh em đã làm thì mình cũng có thế làm được.
- Anh thường nghĩ về Nguyễn Khải ra sao?
- Trong cơ quan có một thằng như thế rất có lợi. Nó kích thích sự suy nghĩ của chính mình.
- Trong các nhà văn trong nước viết từ trước 1945, anh thích những ai? Nam Cao, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng chứ?
- Người đáng nhớ nhất ngoài Nguyễn Tuân, phải kế Khái Hưng. Những cái ông ấy viết thật là tiểu thuyết đấy. Tiêu Sơn tráng sĩ rất giỏi, nói tới văn học Việt Nam không thể không nói tới quyến ấy, không bỏ được Khái Hưng khỏi lịch sử đâu. Chính Nhất Linh cũng viết không bằng.
Hết chuyện trong nước, đến chuyện văn chương nước ngoài. Chân trời của chúng tôi lúc ấy phải nói là chật hẹp không rộng rãi như sau này, thế nhưng nó cũng đủ khối thứ đế bàn mãi không chán.
- Trong các nhà văn thế giới, anh cảm thấy gần với ai?
- Cũng chả có ai cả. Paustovski thích mà Lev Tolstoy cũng thích. Nhưng lạ nhất có lẽ là Cholokhov với cái chất hình tượng trong câu văn. Đọc những người khác, có lúc còn nghĩ là mình sẽ viết được. Những trang tương tự Cholokhov thì chịu đấy.
- Có lẽ anh không thích Ehrenburg?
- Thích chứ, nhưng mà chả bao giờ mình sẽ viết như thế. Ngắc ngứ mãi mới nhá hết Cơn bão táp đế rồi đọc xong thì thấy phục - viết giỏi thật. Rút cục cả quyến sách hơn ngàn trang ấy, điếm còn lại chính là nhân vật ma quái mang tên Mado.
... Gorki có lẽ là nhà văn to mồm nhất mà mình phải chịu.
Và đây, một nhận xét khái quát về văn học nước ngoài, đúng chất một cây bút tự tin như Nguyễn Minh Châu:
- Đọc những trang sách hay, lắm lúc mình cứ buồn cười: đâu như một lần mình đã nghĩ vậy, chỉ có điều, mình không kịp viết ra. Còn đằng kia, thì người ta đã cho nó hiện hình trên mặt giấy. Thành thử, đọc văn nước ngoài đôi khi cứ thấy tưng tức, như là tiếng nước mình bị người ta ăn cắp vậy.
Trong những cuộc đối thoại ngẫu nhiên và thuờng xuyên lan man nhu thế, Nguyễn Minh Châu giảng giải nghề văn cho tôi. Sau này tôi mới hiếu rằng những chiêm nghiệm đó lại là những điều cơ bản của nghề nghiệp, nhiều nhà văn cả đời sống với nghề cũng chỉ nói tương tự.
QUÁ TRÌNH TRƯỞNG THÀNH
Từ một tạp chí lun hành nội bộ, tới đầu năm 1957, Văn nghệ Quân đội ra công khai, tức là có bán rộng rãi như mọi tờ báo khác. Ngoài bộ phận biên tập, Văn nghệ Quân đội còn có một tố phóng viên hoạt động theo sự chỉ đạo của ban phụ trách. Giả sử có một đề tài nào đó, được coi là quan trọng và tạp chí cần có bài, ban phụ trách liền cử người đến đó làm việc, tác phấm viết ra có thế là truyện ngắn, có thế là ký song cuối cùng vẫn phải gắn với không khí cái nơi được nói tới. Các nhà văn như Nguyễn Khải, Hữu Mai, Hồ Phương, Nguyên Ngọc,... lúc đầu đều đã làm việc theo sự chỉ đạo như vậy và Nguyễn Minh Châu cũng không ra ngoài cái lệ chung đó.
Từ những chuyến đi theo “đon đặt hàng” này, ông đã mang về một loạt truyện ngắn và ký in trên Văn nghệ Quân đội trong những năm ấy: Chuyện kể ở đại đội, Vùng sáng phía chân trời, Trên vùng đắt sỏi.
Riêng Ấy niệm hạm tàu, viết sau chuyến đi với hải quân ở Vĩnh Linh sẽ được đấy tới, đế cùng với kinh nghiệm mà Nguyễn Minh Châu đã có ở đồng bằng Bắc Bộ, làm nên tiếu thuyết Cửa sông. Theo các đồng nghiệp ở Văn nghệ Quân đội cũ kế lại, thì ban đầu Cửa sông chỉ là một thiên truyện trên ba chục trang gì đó. Khi bản thảo được toà soạn truyền tay nhau đọc, những người có kinh nghiệm một chút như Nguyễn Khải gợi ý: “Nên triến khai cho rộng ra”. Xuân Sách cũng trêu chọc: “Ỏng tiêu hoang quá! Tài liệu vừa cho một cuốn tiếu thuyết mà ông chỉ dồn vào có vài chục trang”. Nguyễn Minh Châu dỡ cái truyện ngắn kia ra làm lại. Và thế là Cửa sông ra đời.
Đen như quá trình Nguyễn Minh Châu làm việc cho tác phấm chính của đời mình là cuốn Dấu chân người lính, thì câu chuyện lại đáng chú ý ở sự kỹ lưỡng, chắc chắn của ông trong việc xử lý đề tài và nghiền ngẫm chọn hướng làm sách.
Nguyên là khi chiến dịch Khe Sanh vừa chuấn bị mở màn, Phòng Văn nghệ Quân đội đã cử ngay một tốp các nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà văn đi chiến trường, trong đó có Nguyễn Minh Châu và Xuân Sách. Giữa hai người, là cả một khoảng cách khá xa trong tốc độ làm việc. Từ chiến trường, Xuân Sách đã có bài gửi về hết in trên báo, lại đọc trên đài. Xuân Sách viết được cả thơ, lẫn văn. Đâu đã có mấy cuốn sách cùng ký tên là Lê Hoài Đăng (tên ba người con của Xuân Sách) đã được in ra sau chuyến đi ấy.
Trong khi Xuân Sách đã “trả nợ” xong xuôi, thì Nguyễn Minh Châu còn loay hoay mãi. Có lúc ông cao hứng nói đùa:
- Tôi sẽ viết cho nó thật mùi mẫn, thật lắt léo, thì mới thích.
Tôi hiểu đằng sau câu nói đùa này là một tuyên bố: Ông sẽ viết tiểu thuyết.
Khi người ta đang ngấm ngầm định làm cái gì, thì tự nhiên là bị nó hút hết hồn vía, con người bình thường hằng ngày trở nên đờ đẫn chậm chạp, bao nhiêu tinh hoa nhanh nhẹn biến đi đâu cả. Chết một nỗi là sự hoài thai, sự mang nặng đẻ đau của Nguyễn Minh Châu lần này to lớn quá. Óng định có một cái gì bao quát được cả cuộc chiến tranh. Một con người vô hình trong ông ngày đêm kiếm tra lại mọi vật liệu đã được chuẩn bị, rồi tính toán việc cần phải làm, rồi hạch sách mình điều này, cật vấn mình điều kia, khiến người cứ bứt rứt không yên. Có khi đang ngồi nói chuyện giữa đám đông, ông cũng đứng lên bỏ về, như là chợt nhớ ra điều gì, phải ghi ngay, không có thì quên mất...

Một buổi chiều đầu thu 1972, đang ngồi ở phòng, tôi được Nguyễn Minh Châu rủ đi chơi. Lâu nay, bọn tôi thường vẫn loanh quanh ở các hàng nước bên Quán Thánh, hoặc đầu Phùng Hưng, và ăn vài cái bánh rán rồi chiêu chén nước chè mạn là cùng. Lần này, Nguyễn Minh Châu rủ tôi đi xa hơn, ra mãi tận Hàng Chiếu, Nguyễn Siêu, chỗ có mấy hàng miến lươn, bún ốc. Thì ra, anh muốn khao tôi, sau khi nhận nhuận bút Dấu chân người lính. Những người thạo đời hơn, sau khi nhận nhuận bút, thường rủ nhau đến các hiệu cao lâu. Với chúng tôi lúc ấy, mấy hàng quán bên đường cũng đã là đủ.
So với ngày thường, vậy là Nguyễn Minh Châu có bốc lên một tí. Hình như ông đã linh cảm thấy rằng trong cuộc đời viết văn của mình, từ đây sẽ có một bước ngoặt. Quả thật, trước đó chỉ một ít đồng nghiệp gần gũi đánh giá cao nhà văn này, còn đông đảo bạn đọc chưa biết ông là ai. Còn từ Dấu chân người lính trở đi, ông đã trở thành một nhà văn được nhiều người yêu mến và trong giới sáng tác mọi người cũng bắt đầu nhìn ông bằng con mắt khác.
VIẾT VỀ CHIẾN TRANH TỪ GÓC ĐỘ HẬU CHIÊN
... Hồi đang chiến tranh, quãng đầu chợ Bưởi đi xuôi về phía Cầu Giấy có một địa điếm do Quân đội quản lý gọi là công trường 800. Đây là một loạt dãy nhà cao tầng mới được mọc lên trên mảnh đất từng là cánh đồng của làng Nghĩa Đô và bởi lẽ lúc này chỉ có nhà cửa mới làm còn đường sá chung quanh chang ra làm sao nên động mưa một tí là lầy lội. Nói như Nguyễn Minh Châu, khu nhà chẳng khác gì một anh chàng vận com-lê mà lại đi đất và như người phải tội cứ đứng phơi mặt giữa đồng. Đi sâu vào hỏi han thì thấy ở đây có nhiều cơ quan, do nhu cầu sơ tán mà các cơ quan chang có liên quan gì đến nhau ấy cứ ở lẫn vào nhau. Có những cái kho đe trung chuyển hàng trước khi ra tiền phương; có trạm dưỡng thương dành cho anh em ở chiến trường về nghỉ tạm; có nơi ở khá tươm tất của một số cán bộ cấp cục; lại có cái Bệnh viện 354 mà người vợ tần tảo của Nguyễn Minh Châu làm việc.
Chính đây là nơi Nguyễn Minh Châu đã ngồi viết Dấu chân người lính.
Nhưng cũng chính ở đây ông có dịp tiếp xúc với cuộc chiến tranh từ một góc độ gần gũi mà ít ai để ý.
Đi trong khu vực công trường 800, lúc nào người ta cũng bắt gặp những người lính từ các chiến trường phía trong mới ra. Họ chỉ ở Hà Nội ít lâu để nhận hàng (quân trang quân dụng cho đơn vị) hoặc chữa bệnh. Trong những giờ rỗi rãi, Nguyễn Minh Châu trò chuyện với họ, và từ đây ông đã tìm ra cảm hứng và tài liệu đe viết Lửa từ những ngôi nhà, nó chính là sự thể nghiệm đầu tiên của Nguyễn Minh Châu đối với đề tài mà về sau ông sẽ đế công theo đuối: Cuộc sống của những con nguời buớc ra từ chiến tranh. Nhiều lần trong câu chuyện với tôi, Nguyễn Minh Châu dừng lại kế về một chiến sĩ đặc công đang nằm an dưỡng. Sau một lần va chạm với một người bình thường nào đó mà còn kìm giữ được, cậu ta sung sướng nói với nhà văn:
- May quá anh Châu ạ, tôi chỉ ra đòn nhẹ thôi, thì cũng đủ cho lão ta tan nát lục phủ ngũ tạng. Ày vậy mà tôi không động chân động tay gì hết, chỉ từ tốn nhỏ nhẹ nói chuyện với lão ta. Hoá ra mình vẫn có the làm chủ được mình.
Sau này, Nguyễn Minh Châu đã đưa người chiến sĩ này thành nhân vật Phong trong Lửa từ những ngôi nhà...
Một cách lặng lẽ, ngay từ thời gian 1971 - 1972, Nguyễn Minh Châu đã suy nghĩ về cuộc chiến tranh một cách toàn diện và nhất là băn khoăn tìm hiếu những dấu vết mà nó đế lại trong lòng người. Một hình ảnh mà ông thường dùng đế liên tưởng chiến tranh là gió ông cụt, thứ gió không đi thành cơn nhưng đế lại những vòng xoáy ở nơi nó đi qua. Những chuyến long đong dọn nhà. Mấy lần đạp xe về thăm bà mẹ già ở làng quê Quỳnh Lưu, Nghệ An. Hoặc chuyến công tác về một địa phương nào đó... Với cái thực tế ở ngay bên mình và có liên quan tới mình đó, Nguyễn Minh Châu đế tâm quan sát, thăm dò, cắt nghĩa,... và thèm có dịp trình bày những điều đã chiêm nghiệm trên trang giấy.
Thói quen này còn theo mãi với nhà văn khi gia đình ông dọn về khu tập thế phố Ỏng ích Khiêm. Còn nhớ cái chỗ đặt bàn viết của ông những năm cuối đời. Bấy giờ gia đình ông đã được chia một căn phòng riêng khoảng chưa đầy ba chục mét. Nhưng căn phòng chính quá chật, muốn tự do một chút lúc ngồi viết, ông chỉ có cách cơi ra thêm một đoạn ngắn đủ kê cho mình một chiếc giường cá nhân, còn bàn viết của ông thì tiếp ngay vào đoạn cuối giường. Với một cái điếu dùng đế hút thuốc lào đặt ở dưới chân, trong những đêm trường giá lạnh, Nguyễn Minh Châu ngồi đấy, ngẫm nghĩ đủ thứ, từ sự lớn lên của những đứa trẻ bên hàng xóm cho đến những con người ông từng gặp và trò chuyện trên những ngả đường Quảng Trị. Đây chính là sự chuẩn bị tự nhiên và chín chắn cho những tác phấm như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau mà sau 1975, Nguyễn Minh Châu sẽ hoàn thành những năm cuối đời.
KHỐNG PHẢI CHỈ BẰNG BẢN NĂNG
Năm 1968, khi tôi được chuyến về công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội thì bộ phận nghiên cứu phê bình ở đây còn rất yếu ớt, trước tôi chỉ có nhà phê bình Nhị Ca, dù có cố gắng đến đâu thì hai chúng tôi không thế lo hết việc. Bởi vậy ở toà soạn mới đặt ra cái lệ là chính các nhà văn chuyên sáng tác cũng phải tham gia viết cho mục này, đọc sách, phê bình, trình bày kinh nghiệm sáng tác và suy nghĩ về nghề nghiệp thế nào cũng được miễn sao một năm có đủ hai bài.
Phải nói thật, gọi là quy định thế thôi chứ bọn tôi cũng biết là nhiều anh em trong cơ quan không thích thú gì với việc này. Hoặc các anh khất lần không viết hoặc có viết cũng chỉ hươu vượn cho qua.
Riêng có hai người hào hứng viết, chỉ cần bọn tôi ới một tiếng là có bài đúng hẹn, chang những thế, theo tôi là còn viết với nhiều ý đồ rõ rệt, đó là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu.
Xin tạm gọi những bài số tay viết văn, hoặc đọc sách phê bình của Nguyễn Minh Châu là một thứ tuỳ bút nghề nghiệp. Những bài viết này được viết theo kiêu những chiêm nghiệm của một nghệ sĩ đang trên đường tìm tòi. Tuy ở đó có những điều có phần sơ đắng hoặc gần như ai cũng biết, song người ta vẫn thích được đọc nó, bởi một lẽ đơn giản tác giả đã sống với nó một cách chân thành, đã mang vào đây tất cả tâm huyết của một người cầm bút, nó là những băn khoăn, trăn trở thường trực của ông, và ông có nhu cầu phải viết nó ra đế, trước khi chia sẻ với bạn đọc thì tự ông được đối diện với nó, cùng sống với nó mà làm văn chương...

Từ sau Dấu chân người lính, vấn đề này bắt đầu đặt ra với Nguyễn Minh Châu và ông đã chứng tỏ bản lĩnh của mình trong việc theo đuối một quan niệm về nhà văn vốn đã âm thầm tự hình thành nơi ông từ thuở mới cầm bút. Nếu như hồi đầu chống Mỹ, ông chỉ được coi như một người viết chăm chỉ và có năng khiếu thì vào những năm chiến tranh đi dần đến kết thúc, ông đã trở thành một trong những nhà văn nối tiếng nhất của đời sống văn học Hà Nội. Sau hon hai chục năm đứt đoạn, mãi tới năm 1983, Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ ba mới được triệu tập và tại Đại hội này, Nguyễn Minh Châu mới được bầu vào Ban Chấp hành. Nhưng từ khoảng 1974 - 1975 trở đi, ông đã thường được mời tham dự nhiều cuộc họp mở rộng của Ban Chấp hành khoá II, và được tham gia bàn bạc nhiều việc có ý nghĩa quyết định với đời sống văn chương ngay khi mọi người có trách nhiệm còn đang cùng nhau dò dẫm tính toán. Óng có mặt trong ban giám khảo các cuộc thi. Rồi ông nhận hướng dẫn cho một vài bạn trẻ nào đó trong một trại viết do Hội Nhà văn Việt Nam hoặc Phòng Văn nghệ Quân đội tổ chức. Nếu hiếu danh và lợi theo nghĩa thông thường thì có vẻ như Nguyễn Minh Châu sớm tính chuyện tránh những cái đó. Thực thà là ông không có ham hố nào khác ngoài ham hố viết. Song có một cái vai mà hình như ông không ngại, hon nữa còn tự nguyện đảm nhận, đó là cái vai một nhà văn lý tưởng, một nhà văn nói lên tiếng nói của những người lương thiện, nhà văn như là tiêu điếm của cả Nhân dân, đất nước. Trở thành lương tri của xã hội - cái điều nhiều cây bút thời nay trong thâm tâm cũng thấy đúng, nhưng lại cho là xa vời cao siêu quá - chính là điều Nguyễn Minh Châu cảm thấy một cách máu thịt và muốn lấy cả đời văn của mình ra đe thực hiện.
Những ngày cuối cùng của ông ít nhiều gợi lại không khí của một bi kịch hào hùng khi mà cái chết ập đến song cái chết đó chang có ý nghĩa gì với những tư tưởng đang bừng sáng trong lòng người. Từ Nguyễn Khải, Thái Bá Lợi tới Nguyễn Kiên, Nguyễn Trung Thu,... người nào có dịp gặp Nguyễn Minh Châu trước khi chết đều ghi nhớ những lời căn cặn của ông về những việc phải làm cho cả nền văn học cũng như cho xã hội. Nguyễn Đăng Mạnh từng ghi lại mấy câu tâm huyết ông nói trên giường bệnh: “Tư tưởng bảo thủ từ đất đùn lên, nó chủ yếu là nội sinh chứ không phải là ngoại nhập. Nó chi phối cả chính trị, triết học, khoa học văn hoá văn nghệ... Nghĩa là lắt nhắt, thiển cận, không nhìn xa, nước đến đâu thuyền dâng đến đấy... Nhà văn muốn có tầm cỡ thời đại thì lại phải ngụp sâu vào dân tộc mình, Nhân dân mình. Nhưng phải rất tỉnh không được sướt mướt. Tôi ghét cái lối tình cảm làng xóm không biết gì đến thiên hạ, chỉ tâng bốc lẫn nhau, con hát mẹ khen hay. Marquez rất thời đại, rất lớn mà Colombia rất nhỏ...”.
NGHỆ Sĩ VÀ THỜI ĐẠI
Nhân đây tôi muốn phác hoạ lại vài nét về con người nhà văn mà đối với tôi, như sinh ra đế viết văn và dù chưa xác định là nhà văn nhỏ hay nhà văn lớn thì chắc chắn đã là một nhà văn theo đúng nghĩa của hai chữ ấy.
Xuân Thiều - cây bút có thời gian là bạn nối khố của tác giả Dấu chân người lính - kế lại rằng, lần đầu gặp Nguyễn Minh Châu chỉ nhớ đó là một chàng trai tầm thước, trắng trẻo, có nụ cười rất tươi tuy dáng vẻ còn bẽn lẽn.
Quả thật, chất thư sinh là một cái gì thấy rõ ở nhà văn này, chất thư sinh mà chúng ta thường bắt gặp ở những chàng trai gia đình không hắn là giàu có nhưng ngay trong thời Pháp thuộc đã được cắp sách tới trường và biết say mê với vẻ đẹp tinh thần của con người: họ sinh ra đe cảm thụ đời sống hon là đế hành động.

Cái chất thư sinh này còn mãi ở Nguyễn Minh Châu, khi vui chuyện ông còn kế với tôi là những ngày mới nhập ngũ, có lần xách bát đi ăn thấy người xếp hàng đông quá đã quay về.
Nhưng cuộc chiến đấu đã dung nạp tất cả, con người thư sinh này đã đi qua cuộc chiến đấu, làm tròn mọi nghĩa vụ của mình như một chiến sĩ, đồng thời vẫn giữ được cái bản chất nghệ sĩ đáng yêu.
Đó là một con người lơ mơ sự đời, sống giữa mọi người mà hồn vía đế ở tận đâu đâu. Ngay giữa đám đông ông vẫn có thể chìm đắm trong những suy nghĩ riêng, có nói năng gì cũng ngúc ngắc mãi mới phụt ra một câu lạc lõng.
Sự vô tâm của Nguyễn Minh Châu kéo dài tới mức thỉnh thoảng nhà thơ Xuân Sách lại đặt câu hỏi không hiếu sao có lúc ông lại có thể trở thành cán bộ tham mưu thuộc một sư đoàn tác chiến ở đồng bằng sông Hồng.
Có điều, khi thanh thản tính chuyện quan sát sự đời, thì ông lại trở nên một người đối thoại thú vị, loại người mà người ta một khi rỗi rãi thích mò đến trò chuyện.
Cái tài của một người biết đối thoại là đặt mình vào địa vị người đang nói chuyện để khéo léo lần ra những đầu mối mà người ấy quan tâm. Nguyễn Minh Châu chính là một người như thế, ông biết đến với người đối thoại với mình một cách tự nhiên, không cần một chút dụng tâm cố gắng. Hơn thế nữa, ông còn biết mang lại cho đối tượng cái cảm giác như đang tự nói với mình. Hoạ sĩ Quang Thọ, có thời rất mê Nguyễn Minh Châu nôm na tống kết: “Không thế nói dối với thằng này được”.
Chất văn trong con người Nguyễn Minh Châu bắt nguồn từ một khả năng rất cần cho các nghệ sĩ: Luôn luôn ông biết nhìn sự vật xảy ra chung quanh mình một cách mới mẻ.
Ông hết lòng với đời sống theo cái cách riêng của mình. Có thế bảo ông là một người rất có trách nhiệm với chung quanh với nghĩa luôn luôn ông muốn tìm ra ở thực tại những bí mật, những gì tốt đẹp. Và khi đã tìm ra thì ông dứt khoát không bỏ qua và phải nói to lên cho mọi người cùng thấy.
Chẳng phải là khiêm tốn vờ vịt gì, Nguyễn Minh Châu tự kể: “Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt đến ma quỷ. Sau này lớn lên đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người, tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ốn và bình tâm như con dế đã chui tọt được vào lỗ”. Phải nhận đó là một nét tính cách có thực. Nhưng nên nói thêm rằng, đằng sau sự nhút nhát đó lại là khả năng chăm chú theo dõi cuộc đời chung quanh, vui sướng giận hờn vì nó như trên tôi vừa nói, và nhất là cái quyết liệt trong việc đi đến cùng trong suy nghĩ. Trong sự lắng nghe mọi người, ông vẫn giữ riêng cho mình những ý kiến riêng, thậm chí trong một lần nói chuyện riêng với tôi, ông còn tự hào một cách chính đáng rằng vẫn luôn luôn giữ được một khả năng hoài nghi. Dường như sau những phút giao cảm với đời sống ông lại để hết tâm sức vào cái việc quay về với thế giới riêng của mình trước khi cho nó hiện hình trên mặt giấy.
Một khía cạnh nữa làm nên khí chất nhà văn của con người này: Ỏng có một cảm quan ngôn ngữ tinh tế. Trong những lúc xuất thần, ông nói đầy thuyết phục, giá kế có cách nào đó ghi ngay được những điều ông nói thì nó cũng đã duyên dáng tự nhiên như một thứ văn viết điêu luyện. Bản thảo ông gửi cho cánh biên tập chúng tôi thường chỉ được ông viết một lần, tuy có gạch xoá song nói chung vẫn sáng sủa mạch lạc.
ĐI DẦN TÓI MỘT Tư DUY VĂN HỌC HIỆN ĐẠI
Một lần nào đó trong câu chuyện tạt ngang với tôi, nhà thơ Lê Đạt ngẫu nhiên nhận xét: “Quái, mình để ý thì thấy Nguyễn Khải không chịu thay đối gì trong cách viết, chứ đọc Nguyễn Minh Châu mà xem, tay ấy có thay đối”. Tôi không cãi lại Lê Đạt, trong bụng nghĩ nhận xét trên là oan cho Nguyễn Khải, song với Nguyễn Minh Châu thì lại quá đúng. Trong mấy chục năm liên tục cầm bút, tác giả Dấu chân người lính đã thay đối khá nhiều, tuy rằng cũng chỉ thay đối trong điều kiện mà con người ông có chuẩn bị...
Song lại phải nói ngay rằng ở tác giả Dấu chân người lính còn có một phương diện khác như ở trên chúng ta vừa thấy, và hoàn toàn có thế bảo đó là một biếu hiện khác của tinh thần hiện đại. Luôn luôn nghiền ngẫm về nghề và tự tin ở con đường độc đáo của mình, có lúc ông đã đi tới những quan niệm mà những người khác phải nhiều năm lăn lộn với sách vở mới đi tới.
Quá trình hiện đại hoá tư duy văn học của Nguyễn Minh Châu đánh dấu một quá trình làm việc tự nhiên song phải nói là vất vả của một người tự học. Õng không có may mắn là qua tiếng Pháp đọc rộng ra nhiều tác phấm nước ngoài như Nguyễn Khải. Nhưng các bản dịch có giá trị thì không cần ai mách, ông nghiền ngẫm rất kỹ. Một trong những cuốn sách ông thích từ hồi ấy là Những người chân đất của Zaharia Stancu và do Trần Dần dịch ra tiếng Việt. Còn bản dịch tiếu thuyết Tấc đất của G.Baklanov thì là cuốn sách ông đút trong ngăn kéo hồi đang viết Dấu chân người lính. Có thế nói do sống kỹ, sống hết lòng với trang viết của mình, ông lại tìm thấy sự hỗ trợ ở cả những trang sách tưởng rất xa lạ ấy.
Cái mạnh của ngòi bút Nguyễn Khải là cái gì cũng phải rạch ròi sáng rõ. Nguyễn Khải không biết tới những hoàn cảnh mù mờ, những nhân vật lửng lơ mà người ta chỉ biết mô tả chứ không cắt nghĩa ngay được. Nhưng đó cũng là chỗ yếu của tác giả Xung đột. Nguyễn Minh Châu thì khác. Loại nhân vật như lão Khúng lôi cuốn sự say mê của ông. Trong đời sống hằng ngày, ông đã thích những con người có hình có khối kỳ lạ, những khung cảnh mù sương mà bản thân ông chỉ biết đi theo và thích thú quan sát bằng tất cả bản năng sẵn có. Trong hoàn cảnh của những năm từ 1985 về trước, ông không tiện nói nhiều về những hình ảnh đa nghĩa cũng như quan niệm về sự kỳ dị của đời sống. Nhưng đó là một lối tư duy có thực ở ông và nó là một cái gì bấm sinh chứ không phải học đòi đâu hết.
Nhân nói đến khả năng bùng nổ tự nhiên tự phát trong quan niệm nghệ thuật ở Nguyễn Minh Châu, tôi nhớ tới câu chuyện của một tiến sĩ văn học tốt nghiệp bên Pháp. Theo bà, trong số các văn phấm của Nguyễn Minh Châu, thì cỏ lau có ý nghĩa quan trọng hơn cả. Khi tôi hỏi ngay rằng có phải ý ở đây muốn nói truyện vừa này nêu ra một cách nhìn khác đi về chiến tranh thì bà bảo không phải. Hãy đọc lại những trang sách đầu tiên. Điều thú vị là ở đó tác giả tả một hiệu ảnh mọc lên ở một vùng hôm qua bom đạn dày đặc và con người ta phải mất công lắm mới tìm thấy khuôn mặt của mình. Vậy là thấy đặt ra cái nhu cầu là phải có văn học, một chủ đề chỉ có ở văn học hiện đại và có lẽ phải trong chặng cuối của quá trình sáng tác Nguyễn Minh Châu mới đi tới. Có thế mạnh dạn nói về mặt quan niệm sáng tác, tác giả cỏ lau đã đi xa nhất trong số các nhà văn đưong thời? Đúng vậy. Thế nhưng, tôi biết một sự thực khác: Sự kiện B52 Mỹ đánh vào Hà Nội (tháng Chạp năm 1972) từng đế lại trong Nguyễn Minh Châu một ấn tượng sâu sắc. Có đến mấy tháng sau, mỗi khi hồi tưởng lại sự kiện ghê gớm này, Nguyễn Minh Châu vẫn thường nói với tôi:
- Những ngày ấy, vô tình thế nào, mình lại đi chụp một cái ảnh. Lúc ra lấy, lão thợ ảnh bảo làm chưa xong, chỉ thấy thằng con lão bưng ra một chậu nước, trong đó những mặt người cái nối cái chìm, cái lật lên, cái úp xuống, còn ảnh của mình thì lẫn vào đâu, không tìm thấy.
Tức là, nếu coi đây như một thứ mô típ thì Nguyễn Minh Châu đã trở đi trở lại với nó nhiều lần trước khi đưa nó vào cỏ lau. Trong khi mải mê hướng ngòi bút viết ngay về đời sống trước mắt, tư duy nghệ thuật ở nhà văn vẫn có những sự vận động tự thân như nó phải có.
Vương Trí Nhàn



