
Chuyện ông Pareto và bài học từ hạt đậu trong vườn
Hồi cuối thế kỷ XIX, ở nước Ý có một học giả tên là Vilfredo Pareto, một nhà kinh tế học, toán học, nhưng cũng là người mê làm vườn. Trong một lần thu hoạch đậu, ông nhận ra một điều rất lạ: Trong hàng trăm cây đậu, chỉ khoảng hai chục cây cho ra gần hết số trái ngon. Từ phát hiện đó, ông mở rộng nghiên cứu ra nhiều lĩnh vực khác và rút ra một quy luật phổ quát: có vài công việc, nếu làm đúng, sẽ tạo ra gần hết hiệu quả; có vài người, nếu kết nối đúng, sẽ mở ra cả một hệ sinh thái; có vài sản phẩm, nếu chăm chút kỹ, sẽ nâng cả thương hiệu.
Người đời sau gọi đó là nguyên lý Pareto hay quy luật 20/80: 20% nỗ lực tạo nên 80% kết quả. Ông Pareto đâu biết, hơn trăm năm sau, nguyên lý mình tìm ra lại hợp với chuyện ở Việt Nam. Nguyên lý đó đúc kết những điều đơn giản nhưng thường bị bỏ quên: Đừng cố làm cho đông, cho nhiều, cho ồn ào/ Làm ít, mà sâu, chọn kỹ, rồi nuôi dưỡng kỹ/ Như chăm một đọt sen để nở ra một bông thiệt đẹp/ Bông đẹp thì ong tới, khách tới, lòng người tới.
Chục ngàn sản phẩm - đâu phải món nào cũng “ăn nên làm ra”
Ở khắp ba miền đất nước, từ miền núi đến đồng bằng, từ cao nguyên đến đảo xa, chương trình OCOP đã như một “cái rổ to đùng” đựng hàng trăm món ngon vật lạ, nào là sản vật, nào là câu chuyện quê hương, nào là giấc mơ vươn xa của bà con nông dân. Nhưng có một chuyện giống nhau ở khắp nơi: đem cái rổ ra chợ phiên, người ta cứ lựa đi lựa lại vài chục món quen. Còn lại, nhiều món nằm lặng lẽ…

Lúc bắt đầu chương trình OCOP, ai cũng hào hứng. Tỉnh nào cũng đăng ký, huyện nào cũng có, xã nào cũng góp mặt. Nhiều nơi ráng làm sao có được sản phẩm đạt 3 sao, 4 sao. Nhưng rồi, có người nói thiệt: “Được giấy chứng nhận rồi, giờ để… ngó chơi. Bán không chạy, cũng nản!”.
Có sản phẩm nhìn hình thì đẹp, kể chuyện thì hay, bao bì thì sang, mà mở ra ăn thì… chao ôi! Cũng có sản phẩm chất lượng ngon lành, mà bao bì nhìn như mấy chục năm trước để lại.

Ở miền núi phía Bắc, những món như miến dong Na Rì (Bắc Kạn), mắc khén Điện Biên, lạp xưởng Lạng Sơn, gạo Séng Cù Lào Cai, chè Shan Tuyết Hà Giang đã thành tên tuổi. Nhưng vẫn còn hàng trăm món khác từ tài nguyên bản địa chưa mấy ai biết tới.
Ở miền Trung, núi rừng Quảng Ngãi có quế Trà Bồng, sâm Ngọc Linh lặng lẽ đơm hoa giữa đại ngàn Kon Tum. Nhưng nhiều sản phẩm quý vẫn chưa bước ra khỏi bản làng.
Miền Tây thì có xoài cát Hòa Lộc, khô cá lóc Trần Văn Thời, nem Lai Vung, mắm Châu Đốc, sen Đồng Tháp, bánh phồng Sơn Đốc, tôm khô Rạch Gốc… mỗi món là một “thương hiệu bản sắc”.

Tây Nguyên cũng đâu chịu thua. Cà phê Buôn Ma Thuột, bơ Đắk Nông, mật ong Gia Lai, macca Lâm Đồng, đã làm nên tiếng vang. Nhưng liệu những “món đầu tàu” ấy có đang kéo theo cả đoàn tàu sản phẩm OCOP địa phương đi đúng hướng?
Làm sao lựa đúng món ngon, có hồn, để làm gương mặt đại diện?
OCOP không chỉ là chuyện sản phẩm, mà còn là chuyện kể về quê hương, con người, lịch sử và tâm huyết. Mỗi món ngon nên là một lát cắt văn hóa, một câu chuyện khiến người nghe xong rồi thương, một món quà khiến người nhận trân quý.
Hãy để 20% món ngon thật sự kéo 80% còn lại đi lên. Nói như vậy không có nghĩa là bỏ rơi những sản phẩm khác mà phải chọn 20% đầu tàu để: làm thương hiệu cho cả tỉnh, cả vùng; dẫn dắt trong truyền thông, hội chợ, du lịch; làm thỏi nam châm thu hút thị trường.
Giống như bông sen đẹp giữa ao làng, người ta tới coi sen, rồi mới nhìn thấy gương, lá, rồi mới nghe chuyện bùn đất nuôi hoa.
Tới lúc ngồi lại, lựa ra 20% món “ngon thật, có hồn thật”
Nguyên lý 20/80 không phải là lý thuyết xa xôi. Đó là cách để sử dụng công sức, tiền bạc cho trúng chỗ. Trong hàng trăm, hàng ngàn sản phẩm OCOP toàn quốc, đâu phải món nào cũng bán được, lan tỏa được, kể chuyện được. Nhiều khi chỉ cần 20% sản phẩm thôi, là đủ để 80% số người nhớ tới vùng quê của mình.
Vậy sản phẩm “chủ lực” là gì? – Là món mà bước ra khỏi quầy, ra tới sân bay, siêu thị, hội chợ quốc tế mà vẫn đứng vững; là món mà người quê mình tự hào đem làm quà biếu; là món mà khi kể lại chuyện làm ra nó, người ta nghe xong rồi thương đất, thương người.
Làm sao để những món đó thành “gương mặt đại diện”? - Không phải nói: “mình có sao, bán vậy” là được. Phải nói làm sao cho người ta muốn mua. Phải kể sao cho người ta thấy mình gửi cả tình yêu quê hương vô trong đó. Mỗi món OCOP phải là một câu chuyện, một ký ức, một hơi thở của xứ sở. Cái giấy chứng nhận sao này sao nọ, không thay cho niềm tin của khách hàng.
Dồn sức vô 20% món nổi bật - để kéo 80% còn lại đi theo: không phải bỏ rơi những sản phẩm khác, mà là dùng mấy món “đầu tàu” này kéo cả đoàn tàu OCOP cùng chạy. Làm như trồng sen vậy đó. Có bông sen đẹp, người ta mới bước vô đồng. Rồi mới thấy lá non, gương già, mới nghe chuyện bùn đất nuôi hoa.
Làm ít mà sâu, làm đúng mà bền: Mình đâu có nhiều tiền để làm dàn trải. Mình cũng không có nhiều cơ hội để được chú ý giữa hàng chục ngàn sản phẩm. Vậy thì phải chọn kỹ, làm tới nơi tới chốn. Phải nuôi từng sản phẩm OCOP như nuôi một đứa con mang họ quê hương đi ra với thế giới. Sản phẩm OCOP không phải chỉ để đếm!
Mỗi địa phương cần chọn ra vài chục món tinh túy, để kể cho đời nghe chuyện đất nước mình - bằng tất cả sự tự hào, trân quý và tử tế.
Mỗi địa phương cần có Trung tâm tư vấn hỗ trợ các chủ thể OCOP. Trung tâm định kỳ mời các hệ thống phân phối, các chuyên gia về chất lượng, thiết kế bao bì, phân tích giá trị văn hoá, xu thế tiêu dùng để phân tích đánh giá từng sản phẩm. Thị trường là thước đo chính xác, là cách xếp “sao” trung thực nhất.
Ông Pareto rút ra một kết luận kinh điển: “Trong mọi thứ, hãy tìm ra cái cốt lõi, rồi làm tới nơi. Phần lớn giá trị thường nằm ở số ít điều ta thường bỏ qua”. Đừng chỉ đăng ký và được công nhận rồi… để đó. Cũng đừng loay quay đánh giá nội bộ, theo kiểu “ta với mình”, “mình với ta”. Thị trường khắc nghiệt lắm!

LÊ MINH HOAN