Giai đoạn 2021 - 2025, Đề án phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Nghệ An đã được triển khai thực hiện và đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Một số vùng sản xuất chuyên canh, tập trung đã được hình thành, nâng cao cả về năng suất và chất lượng sản phẩm. Một số sản phẩm vượt ra ngoài thị trường nội địa và đã có mặt trên thị trường thế giới như chè, hoa quả tươi, nước ép hoa quả, gạo, tinh bột sắn, sản phẩm gỗ, thủy sản v.v...
Tuy vậy, việc phát triển các cây trồng, vật nuôi chủ lực vẫn còn không ít hạn chế, thách thức. Trong sản xuất vẫn còn tình trạng lạm dụng phân bón vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật. Nhiều nơi sản xuất còn manh mún, không theo quy hoạch, chạy theo thị trường dẫn đến tình trạng được mùa mất giá. Sản phẩm chủ yếu vẫn ở dạng thô. Liên kết giữa người sản xuất, doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm và nhà khoa học còn yếu, lỏng lẻo. Việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất chưa nhiều nên chất lượng sản phẩm chưa cao. Bên cạnh đó, một số tiềm năng phát triển còn bỏ ngỏ như chưa làm tăng giá trị gia tăng, chưa khai thác giá trị của sản phẩm phụ, chưa phát triển các loại hình du lịch liên quan (du lịch trải nghiệm, du lịch canh nông) để nâng cao cạnh tranh, thu nhập cho người nông dân. Xu thế phát triển theo phong trào của một số cây trồng, vật nuôi chủ lực (cam, quýt, lợn,...) khi giá sản phẩm trên thị trường tăng cũng như xu thế ở chiều ngược lại người dân chuyển đổi sang cây trồng, vật nuôi khác khi giá sản phẩm giảm mạnh, hiệu quả kinh tế thấp đã làm mất tính ổn định và tính bền vững trong phát triển của ngành hàng nông nghiệp chủ lực.
Hiện nay, cây trồng, vật nuôi chủ lực của tỉnh đứng trước bối cảnh, cơ hội phát triển mới: Việt Nam thực hiện các Hiệp định EVFTA, IPA và các FTA khác; những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng chuyển đổi số, kinh tế số, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý ngành; triển khai Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 18/7/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Nghệ An đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Toàn tỉnh cũng đang tích cực triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng với quyết tâm mới, khí thế mới.
Đề án đặt ra mục tiêu phát triển các cây trồng, vật nuôi chủ lực đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo hướng sử dụng tối ưu các nguồn lực, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển sản xuất gắn với đẩy mạnh chế biến, bảo quản theo chuỗi giá trị, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh trên thị trường.
Phát huy tiềm năng, lợi thế về diện tích tự nhiên, điều kiện khí hậu đa dạng, đất đai phong phú, việc phát triển cây trồng, vật nuôi chủ lực chính là biến thế mạnh thành nguồn lực. Nguồn lực này phục vụ mục tiêu kép, vừa để phát triển công nghiệp chế biến, xuất khẩu, vừa khẳng định giá trị, vị thế của nông sản nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung.
Đối tượng cây trồng, vật nuôi chủ lực được xác định, lựa chọn dựa trên hệ thống tiêu chí có tính khoa học và thực tiễn, vừa định lượng vừa định tính. Tựu trung lại gồm 6 nhóm tiêu chí: quy mô đóng góp giá trị sản xuất cho ngành nông nghiệp, khả năng chế biến và liên kết chuỗi, thị trường tiêu thụ, tiềm năng phát triển bền vững, khả năng xây dựng thương hiệu và truy xuất nguồn gốc, mức độ ưu tiên của chính sách.
Từ hệ thống tiêu chí lựa chọn nêu trên, tỉnh đã xác định cây trồng, vật nuôi chủ lực gồm 9 cây trồng và 6 vật nuôi: cây lúa, cây sắn nguyên liệu, cây mía nguyên liệu, rau củ quả, cây chè công nghiệp, cây cam, cây dứa, cây dược liệu, cây gỗ nguyên liệu; bò thịt, bò sữa, lợn, gia cầm, tôm nuôi, cá nuôi.
Mỗi cây trồng, vật nuôi chủ lực đều có mục tiêu, định hướng phát triển riêng phù hợp, đồng thời hướng tới mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả, giá trị kinh tế, đóng góp lớn cho ngành nông nghiệp, cải thiện đáng kể đời sống, thu nhập cho người dân. Định hướng nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm tập trung vào 3 nội dung chính.
Thứ nhất, trong hoạt động sản xuất, định hướng quy mô vùng sản xuất tập trung gắn với bảo quản và chế biến. Đi cùng với đó là sự đột phá về công nghệ cao, ưu tiên sử dụng giống chất lượng cao, giống đặc sản, hữu cơ (trên 90%) đáp ứng nhu cầu thị trường cao cấp và xuất khẩu. Ứng dụng công nghệ cao, cơ giới hóa trong các khâu làm đất, thu hoạch, bảo quản. Mở rộng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ... Xây dựng chuỗi giá trị bền vững, hình thành chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ 4 nhà, trong đó lấy hợp tác xã kiểu mới làm nòng cốt, có hợp đồng dài hạn, minh bạch - nhiệm vụ, giải pháp được xem là then chốt. Mở ra hướng đi mới trong phát triển kinh tế đa giá trị, đặc biệt là kết hợp du lịch nông nghiệp - trải nghiệm tại vùng sản xuất, chế biến đặc trưng.
Thứ hai, trong hoạt động chế biến và logistics hướng tới hiện đại hóa và chế biến sâu nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị cao (sản phẩm đặc sản, hữu cơ, dinh dưỡng). Phát triển thị trường logistics nông sản, hệ thống kho lạnh, chợ đầu mối...Tăng giá trị và bảo vệ môi trường, tận dụng tối đa phế, phụ phẩm (trên 70%) để làm phân bón, năng lượng tái tạo, thức ăn chăn nuôi. Phát triển mô hình nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn theo hướng hiện đại, bền vững.
Thứ ba, đẩy mạnh chuyển đổi số trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị nhằm phát huy tối đa hiệu quả sản xuất và giá trị sản phẩm nông sản chủ lực của tỉnh. Trong quản lý sản xuất, áp dụng các phần mềm quản lý trang trại, nhật ký điện tử để theo dõi quy trình canh tác, chăn nuôi (từ khâu gieo trồng đến thu hoạch); sử dụng công nghệ IoT (cảm biến, camera giám sát...), tự động hóa trong quản lý nhiệt độ, độ ẩm, chất lượng nước, môi trường chăn nuôi. Trong chuỗi cung ứng và chế biến cần số hóa dữ liệu sản xuất, kết nối giữa vùng nguyên liệu, doanh nghiệp chế biến và thị trường. Triển khai các hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử, mã QR code, blockchain...để minh bạch thông tin sản phẩm, nâng cao độ tin cậy với người tiêu dùng. Phát triển thương mại điện tử và marketing số thông qua xây dựng và vận hành các kênh bán hàng trực tuyến, tham gia sàn thương mại điện tử để mở rộng thị trường tiêu thụ; ứng dụng các nền tảng mạng xã hội; hỗ trợ doanh nghiệp và hợp tác xã phát triển các gian hàng online, website giới thiệu sản phẩm.
Sau khi được phê duyệt, để triển khai thành công Đề án cần nhiều chương trình, kế hoạch, dự án cụ thể, sự tập trung nguồn lực và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các doanh nghiệp, hợp tác xã cũng như từng hộ dân. Bên cạnh nguồn lực đầu tư từ Trung ương, tỉnh cần có sự rà soát, nghiên cứu để xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù. Tại kỳ họp thứ 35 vừa qua, HĐND tỉnh khóa XVIII đã thông qua Nghị quyết ban hành quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2026 - 2030, trong đó có chính sách đối với cây trồng, vật nuôi chủ lực. Trong thời gian tới, các chính sách khác có liên quan như khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) v.v... cũng cần được xem xét để sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp với yêu cầu phát triển mới.
Tiếp nối và phát triển Đề án giai đoạn trước, Đề án phát triển cây trồng, vật nuôi chủ lực gắn với chế biến, bảo quản liên kết chuỗi giá trị sản phẩm trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 sẽ mở ra hướng đi mới, thúc đẩy ngành nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế của tỉnh nói chung phát triển bền vững./.



