Làm rõ tiêu chí bồi thường và quy trình đối thoại
Cơ bản đồng tình với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Tài chính, ĐBQH Trần Nhật Minh đề nghị, Chính phủ quan tâm rà soát kỹ các quy định của dự thảo Nghị quyết có tác động trực tiếp đến quyền lợi của người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư; giá đất; miễn, giảm tiền sử dụng đất. "Việc hoàn thiện các quy định cần bảo đảm phù hợp Hiến pháp, thống nhất với pháp luật liên quan, không làm phát sinh khiếu kiện và bảo đảm lợi ích hài hòa giữa người dân – doanh nghiệp – Nhà nước", đại biểu nhấn mạnh.
Đối với khoản 6 Điều 3, dự thảo quy định bồi thường bằng đất ở tại chỗ trong trường hợp bảng giá đất chưa có giá tại vị trí cụ thể, Chủ tịch UBND cấp xã căn cứ vào giá đất tại “vị trí tương tự”. Đại biểu cho rằng, khái niệm này còn chung chung, thiếu tiêu chí rõ ràng và dễ gây vướng mắc khi áp dụng. Từ thực tiễn quản lý đất đai, đại biểu đề nghị thay bằng cụm từ “vị trí có hạ tầng tương đương” để bảo đảm khả năng đối sánh và tránh phát sinh khiếu kiện.
Về điểm b khoản 8 Điều 3, dự thảo quy định thời hạn tổ chức đối thoại trong thời gian 30 ngày kể từ ngày lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư... Đại biểu nhận định, quy định theo hướng rút ngắn thời hạn so với luật hiện hành là phù hợp nhưng cần thể hiện rõ “trong phạm vi 30 ngày”, tránh hiểu rằng phải chờ đủ 30 ngày mới được đối thoại. Theo đại biểu, cách quy định mở sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền chủ động tổ chức đối thoại sớm, hỗ trợ đẩy nhanh tiến độ thu hồi đất phục vụ các dự án đầu tư.
Đối với khoản 11 Điều 3 quy định UBND cấp xã quyết định mức hỗ trợ khác cho từng dự án cụ thể, đại biểu bày tỏ lo ngại rằng việc phân tán thẩm quyền như vậy sẽ làm phát sinh sự khác biệt trong chính sách giữa các xã trong cùng một địa phương, đặc biệt đối với các dự án liên xã. Điều này có thể gây so sánh giữa các hộ dân, dẫn đến khiếu kiện và ảnh hưởng tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng. Đại biểu Trần Nhật Minh đề nghị tập trung thẩm quyền này tại UBND cấp tỉnh để bảo đảm thống nhất trong áp dụng chính sách.
Hoàn thiện cơ chế miễn, giảm tiền sử dụng đất
Liên quan khoản 1 Điều 10 của dự thảo Nghị quyết: "Trường hợp được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì không phải thực hiện thủ tục xác định giá đất, tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và không phải thực hiện thủ tục đề nghị miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, trừ trường hợp chỉ được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất một số năm", đại biểu Trần Nhật Minh đánh giá cao quy định miễn thủ tục xác định giá đất, tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và miễn thủ tục đề nghị miễn đối với trường hợp được miễn toàn bộ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. "Đây là quy định thiết thực, góp phần giảm chi phí, thời gian và cắt giảm mạnh thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp", đại biểu khẳng định.
Tuy nhiên, đối với trường hợp chỉ được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong một số năm, dự thảo vẫn yêu cầu thực hiện thủ tục đề nghị miễn. Đại biểu cho rằng, thủ tục này không thật sự cần thiết và nên được cắt giảm. Theo đại biểu, cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu theo hướng chỉ giữ lại thủ tục xác định giá đất và tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất để tính toán chính xác số tiền được miễn; không yêu cầu thêm thủ tục đề nghị miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, nhằm góp phần loại bỏ cơ chế xin – cho trong quản lý nhà nước về đất đai.
Trên cơ sở đó, đại biểu Trần Nhật Minh đề xuất sửa khoản 1 Điều 10: Trường hợp được miễn toàn bộ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì không thực hiện thủ tục xác định giá đất, tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và không thực hiện thủ tục đề nghị miễn. Trường hợp chỉ được miễn một số năm thì chỉ thực hiện thủ tục xác định giá đất và tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; không thực hiện thủ tục đề nghị miễn.



