Đúng đắn, kịp thời
Nghị quyết về số giờ làm thêm trong 1 năm, trong 1 tháng của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội được đánh giá là chủ trương hết sức đúng đắn, cần thiết trong giai đoạn hiện nay, xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp và người lao động.
Nghị quyết quyết nghị: “Trường hợp người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng lao động làm thêm trên 200 giờ nhưng không quá 300 giờ trong một năm, trừ các trường hợp: người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi; người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Và không áp dụng quy định này đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 107 của Bộ luật Lao động”.
Liên quan đến quyền lợi thiết thân của người lao động, nên xem xét tăng giờ làm thêm trong bối cảnh dịch Covid-19 là nội dung được Quốc hội ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành trong trường hợp cấp bách. Vì thế, việc xem xét, thông qua Nghị quyết được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cân nhắc một cách thận trọng. Như nhấn mạnh của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, đây là một quyết sách liên quan đến nhiều khía cạnh về lao động, sản xuất, việc làm, sức khỏe, chính trị, xã hội… vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải "đứng" ở vị trí giải quyết hài hòa những lợi ích này.
Với tinh thần này, để cân nhắc số giờ làm thêm trong 1 năm không quá 300 giờ, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh, đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra dự thảo Nghị quyết cho biết, ngay trong quá trình thẩm tra dự án Bộ luật Lao động năm 2019, Ủy ban Xã hội đã tổ chức nhiều cuộc khảo sát, tham vấn ý kiến trực tiếp từ người lao động và khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế về thời giờ làm thêm, để đưa ra phương án hợp lý nhất.
Phương án này, thông qua khảo sát mới đây của Tổng Liên đoàn Lao động với 17.000 lượt ý kiến cũng nhận được sự đồng tình nhất trí cao. Thực tiễn cho thấy, hầu hết doanh nghiệp do sức ép công việc, sức ép đơn hàng đã trực tiếp thỏa thuận với người lao động để tiến hành việc tăng giờ làm thêm. Chính vì thỏa thuận “ngấm ngầm” này mà quyền lợi người lao động không được bảo đảm. Cho nên, việc quy định thời gian làm thêm trong 1 năm là "trên 200 giờ nhưng không quá 300 giờ" là rất hợp lý, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người lao động, góp phần phục hồi và phát triển kinh tế. Đặc biệt, việc tăng giờ làm thêm trong 1 năm, 1 tháng cũng được cân nhắc đến khả năng tái tạo sức lao động của người lao động, như nhấn mạnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đó là không đánh đổi sức khỏe của người dân, người lao động để lấy tăng trưởng.
Giải quyết hài hòa lợi ích
Sự cân nhắc thận trọng, kỹ lưỡng, khách quan, toàn diện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội còn thể hiện ở quy định mức trần làm thêm giờ trong 1 tháng.
Trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh cho biết, tiếp tục có 2 loại ý kiến về vấn đề này. Loại ý kiến thứ nhất (của Ủy ban Xã hội) cho rằng, việc nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng lên mức không quá 72 giờ là quá cao, trong khi cơ quan soạn thảo chưa đưa ra được căn cứ thuyết phục. Do đó, Ủy ban Xã hội đề nghị chỉ nên nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ "không quá 40 giờ" lên "không quá 60 giờ", tương ứng với việc được áp dụng thời gian làm thêm tối đa trong 1 năm "từ 200 giờ lên không quá 300 giờ" (tương đương với 150%). Đây cũng là ý kiến được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lựa chọn để thực hiện mục tiêu bảo đảm sức khỏe, tái tạo sức lao động, an toàn lao động của người lao động.
Loại ý kiến thứ hai đồng tình nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên "không quá 72 giờ" như Tờ trình của Chính phủ và cho rằng, đây là mức hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Đây cũng là ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.
Cho ý kiến về nội dung này tại Phiên họp thứ Chín, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nêu rõ, suốt thời gian từ khi Chính phủ bắt đầu trình cùng quá trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định dự thảo Nghị quyết này, cá nhân Chủ tịch Quốc hội "không nhận được bất cứ một đề xuất nào của doanh nghiệp, hiệp hội bằng văn bản thấy có nhu cầu cần phải tăng giờ làm thêm lên mức 72 giờ".
Một nội dung được Chủ tịch Quốc hội đề nghị cơ quan soạn thảo phải đặc biệt quan tâm, đó là vấn đề "hậu Covid-19”. Đây là vấn đề lớn đang đặt ra, bởi nhiều trường hợp sau khi bị Covid-19 không phải ai cũng duy trì lại được sức khỏe cũng như trạng thái tâm lý xã hội bình thường. Nhấn mạnh giờ lao động là "quyền của Quốc hội", và Nghị quyết số 30/2021/QH15 của Quốc hội (Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa XV) đã ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cho nên Chủ tịch Quốc hội nêu rõ: Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải "hết sức kỹ lưỡng, cân nhắc". Chúng ta xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp. Và một quyết sách ở đây, cụ thể về việc tăng giờ làm, thì không chỉ liên quan đến vấn đề lao động, sản xuất, việc làm mà còn là sức khỏe, chính trị, xã hội và nhiều vấn đề khác nữa. Do đó, "chúng ta phải giải quyết hài hòa lợi ích này", Chủ tịch Quốc hội nói.
Đại dịch Covid-19 đã và đang đặt ra bài toán thiếu hụt lao động. Đây không phải là câu chuyện riêng của Việt Nam. Tính riêng 2 tháng đầu năm 2022, nước ta có hơn 6,6 triệu ca mắc Covid-19, nếu mỗi ca nhiễm với 10 ngày nghỉ, số tổn thất ngày công vào khoảng 66 triệu. Và trong 23 ngày đầu tháng 3 này, nước ta có hơn 3 triệu ca mắc Covid-19, cộng thêm con số phát sinh hàng ngày thì con số này sẽ vào khoảng 4 triệu ca, tương đương khoảng 40 triệu ngày công sẽ bị mất trong tháng 3. Điều này ít nhiều sẽ gây tác động đến hoạt động của nền kinh tế.
Lý lẽ đưa ra là vậy, song tăng giờ làm thêm không phải là “giải pháp duy nhất" để giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động. Đây chỉ là "giải pháp tình thế" trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hiện nay. Như khẳng định của Chủ tịch Quốc hội, thì "chúng ta còn có nhiều chính sách khác chứ không phải chỉ có chính sách này" để hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời với chính sách này, ngay trong "gói chính sách 135.000 tỷ đồng" mà Quốc hội thông qua cũng dành nhiều tiền để bù đắp sự thiếu hụt về lao động hiện nay...
Đồng tình với quan điểm của Chủ tịch Quốc hội, trên cơ sở cân nhắc vấn đề cả từ phía người sử dụng lao động và người lao động, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương tán thành với phương án 60 giờ "là phù hợp trong điều kiện hiện nay". Phân tích sâu hơn về cơ sở lý luận và thực tiễn của phương án này, Phó Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, mục tiêu xuyên suốt của chế độ ta là tăng lương, giảm giờ làm. Doanh nghiệp muốn "tăng năng suất lao động thì phải cải tiến kỹ thuật, bảo đảm tăng lương, giảm giờ làm cho người lao động". Đại dịch Covid-19 một mặt gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực, nhưng mặt khác đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước ta luôn chủ trương không đánh đổi sức khỏe và sinh mạng của người dân để lấy tăng trưởng. Đây là những quan điểm mà cơ quan soạn thảo phải "bám vào".
Nghị quyết về số giờ làm thêm trong 1 năm, trong 1 tháng của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội là một trong những chính sách đặc biệt, đặc cách, đặc thù mà Nghị quyết số 30/2021/QH15 đã ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Do đó, thời hiệu hết hiệu lực của Nghị quyết này sẽ theo Nghị quyết số 30/2021/QH15 của Quốc hội.
Anh Thảo