Tại phiên chất vấn, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ cùng lãnh đạo các sở, ngành liên quan đã trực tiếp trả lời, giải trình, nhận diện những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và trách nhiệm; đồng thời đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai chuyển đổi số trên địa bàn.

Trên cơ sở báo cáo, khảo sát và diễn biến phiên chất vấn, thay mặt chủ tọa, ông Nguyễn Như Khôi – Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh đã kết luận một số nội dung trọng tâm.

Nhiều kết quả nổi bật trong triển khai chuyển đổi số

Phó Chủ tịch HĐND tỉnh ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ cùng các sở, ngành, địa phương trong thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số thời gian qua. Việc triển khai Nghị quyết số 09 của Tỉnh ủy và các chương trình, kế hoạch của UBND tỉnh đã tạo chuyển biến mạnh mẽ trên cả ba trụ cột: Chính quyền số, Kinh tế số và Xã hội số.

Các đồng chí trong Thường trực, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các đại biểu tại phiên làm việc sáng 12/12 tại Kỳ họp thứ 35, HĐND tỉnh khóa XVIII

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo được triển khai đồng bộ, quyết liệt từ tỉnh đến cơ sở; nhận thức của cán bộ, người dân và doanh nghiệp về vai trò chuyển đổi số được nâng lên rõ rệt.

Các chỉ số xếp hạng chuyển đổi số và kinh tế số tăng trưởng tích cực: năm 2024, chỉ số chuyển đổi số của tỉnh tăng 15 bậc, vươn lên xếp thứ 27/63 tỉnh, thành phố (bộ chỉ số cũ) và thứ 13/34 tỉnh, thành phố (bộ chỉ số mới); kinh tế số ước đạt 9,05% GRDP, đứng thứ 15 toàn quốc, khẳng định vị thế dẫn đầu khu vực Bắc Trung Bộ.

Hạ tầng số tiếp tục được đầu tư, nâng cấp: mạng di động phủ 99,97% dân số; cáp quang băng rộng đến 100% số xã; mô hình “Chính quyền địa phương 2 cấp” giai đoạn 1 được Trung ương đánh giá mức “Xanh” – đứng thứ 4 toàn quốc. Công tác bảo đảm, an ninh an toàn thông tin được chú trọng, bảo đảm thông suốt quá trình xử lý nhiệm vụ của cơ quan nhà nước.

Dữ liệu số và các nền tảng dùng chung phát huy hiệu quả; hệ thống VNPT-iOffice, iGate, giao ban trực tuyến, ký số... vận hành ổn định. Gắn với Đề án 06/QĐ-TTg, tỉnh đã số hóa hơn 2,2 triệu dữ liệu hộ tịch, xác thực 99,75% dữ liệu bảo hiểm xã hội, và hoàn thành nhiều chiến dịch chuẩn hóa dữ liệu theo phương châm “đúng, đủ, sạch, sống”, tạo nền tảng quan trọng cho việc hoàn thiện chính quyền số.

Chuyển đổi số mang lại lợi ích thiết thực cho người dân và doanh nghiệp: dịch vụ công trực tuyến cấp tỉnh đạt trên 90%; thanh toán không dùng tiền mặt được triển khai rộng rãi tại trường học, cơ sở y tế, chi trả an sinh xã hội; thủ tục hành chính tiếp tục được rà soát, đơn giản hóa.

Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Nguyễn Như Khôi kết luận nội dung chất vấn

Nhận diện những hạn chế, “điểm nghẽn”

Bên cạnh những kết quả tích cực, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh chỉ rõ, công tác chuyển đổi số từ tỉnh đến cơ sở vẫn còn những tồn tại, hạn chế - những "điểm nghẽn", cụ thể:

1. Hạ tầng số - nhất là ở cấp xã - còn thiếu đồng bộ. Tại cấp xã sau sáp nhập theo thống kê: 35% trong tổng số hơn 3.500 máy tính có cấu hình thấp, không đảm bảo vận hành các nền tảng số với hệ thống thông tin, dữ liệu ngày càng lớn. Bên cạnh đó, tại khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn còn các thôn bản chưa có sóng hoặc chất lượng sóng yếu, hạ tầng chưa vững chắc.

2. Dữ liệu số còn rời rạc, tiến độ số hóa hồ sơ tồn đọng còn chậm; tình trạng "cát cứ dữ liệu" chưa được giải quyết kịp thời. Đặc biệt, tiến độ chỉnh lý, số hóa hồ sơ, tài liệu lưu trữ - nhất là khối lượng hồ sơ sau quá trình sáp nhập xã, bỏ cấp huyện - hiện còn chậm. Điều này khiến cán bộ công chức khi thực thi các nhiệm vụ liên quan vẫn phải tìm kiếm thủ công, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của mô hình chính quyền điện tử.

3. Hiệu quả sử dụng dịch vụ công trực tuyến và dịch vụ đô thị thông minh chưa cao:

- Về dịch vụ công: Tỷ lệ hồ sơ trực tuyến theo báo cáo là 96,4%, nhưng thực tế tại rất nhiều văn phòng dịch vụ công trực tuyến, cán bộ ở đây phải "làm hộ, làm thay" cho người dân.

- Về dịch vụ đô thị thông minh: Việc ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) để giải quyết các vấn đề bức xúc như giao thông, môi trường, quản lý đô thị... còn hạn chế.

Đại biểu Trình Văn Nhã nêu câu hỏi tại phiên chất vấn

4. Nguồn nhân lực chuyển đổi số thiếu, không đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Đội ngũ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin các cấp, nhất là cấp xã đang rất thiếu (theo tổng hợp của sở Nội vụ, hiện 105 xã còn thiếu cán bộ phụ trách công nghệ thông tin). Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước, nhất là cấp cơ sở chưa thành thạo các kỹ năng cơ bản về ứng dụng công nghệ thông tin trong thực thi nhiệm vụ hàng ngày.

5. Thứ năm, công tác đảm bảo an toàn thông tin còn tiềm ẩn rủi ro: Nhiều hệ thống thông tin chưa được phê duyệt hồ sơ cấp độ an toàn đầy đủ; nhận thức và kỹ năng bảo đảm an toàn thông tin của một bộ phận cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin và người dân còn hạn chế, dễ mất an toàn thông tin hoặc bị lừa đảo trực tuyến. Kinh phí thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số chưa đáp ứng yêu cầu, cá biệt có địa phương còn chuyển sang sử dụng cho nội dung khác.

Triển khai quyết liệt 5 nhóm nhiệm vụ trọng tâm

Đồng tình với các nhóm giải pháp của Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện quyết liệt 5 nhóm nhiệm vụ trọng tâm:

Một là, xác định chuyển đổi số là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục; đẩy nhanh số hóa tại các sở, ngành, địa phương nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung của tỉnh, phục vụ cải cách hành chính. Tiếp tục triển khai quyết liệt Đề án 06/CP của Chính phủ, khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các tiện ích định danh điện tử; nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến. Đồng thời, quán triệt và thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 09-NQ/TU của Tỉnh ủy về chuyển đổi số; nghiên cứu trình HĐND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số giai đoạn 2026 – 2030. Đây là cơ sở quan trọng để tháo gỡ khó khăn cho hoạt động khoa học công nghệ nói chung, chuyển đổi số nói riêng từ tỉnh tới cơ sở thời gian tới.

Hai là, tập trung nguồn lực tháo gỡ các “điểm nghẽn” về hạ tầng số; ưu tiên bố trí kinh phí để thay thế hệ thống máy tính cũ, cấu hình thấp tại cấp xã, bảo đảm điều kiện làm việc trên môi trường số; đẩy nhanh đầu tư, nâng cấp hệ thống hội nghị trực tuyến đến cấp xã. Chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông thực hiện lộ trình xóa vùng lõm sóng, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho người dân vùng sâu, vùng xa. Tích hợp định danh điện tử VNeID trong toàn bộ dịch vụ công để nâng cao tính xác thực. Tập trung triển khai nền tảng quản trị tập trung, kết nối đồng bộ với Trung tâm Điều hành thông minh IOC; hoàn thiện hệ thống thông tin báo cáo của tỉnh, bảo đảm dữ liệu được cập nhật liên tục, theo thời gian thực hiện.

Đại biểu Lê Văn Lương và đại biểu Phan Thị Minh Lý nêu câu hỏi tại phiên chất vấn; Giám đốc Sở KH&CN Nguyễn Quý Linh trả lời chất vấn của các đại biểu HĐND tỉnh

Ba là, quyết liệt “số hóa quy trình” và xử lý dứt điểm hồ sơ tồn đọng. Thực hiện nghiêm Nghị quyết số 214/NQ-CP của Chính phủ và Kế hoạch 986/KH-UBND của UBND tỉnh về tạo lập dữ liệu phục vụ chuyển đổi số. Rà soát, chuẩn hóa danh mục cơ sở dữ liệu chuyên ngành, đặc biệt là đất đai, hộ tịch, an sinh xã hội…; sớm chấm dứt tình trạng “cát cứ dữ liệu”. Tập trung hoàn thiện Kho dữ liệu dùng chung của tỉnh, bảo đảm kết nối liên thông giữa các cấp, ngành và kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia. Chuyển trọng tâm từ “số hóa giấy tờ” sang “số hóa quy trình” và “khai thác dữ liệu thông minh”. Đẩy nhanh chỉnh lý, lưu trữ, số hóa khối lượng hồ sơ, tài liệu lớn sau sáp nhập xã, bỏ cấp huyện để bảo đảm tính liên tục của dữ liệu phục vụ người dân.

Bốn là, bố trí đủ nhân lực CNTT, nhất là cấp xã; rà soát và bố trí cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm có năng lực đáp ứng yêu cầu. Đa dạng hóa phương pháp đào tạo theo hướng thực hành, “cầm tay chỉ việc”, đào tạo trực tuyến. Đẩy mạnh phong trào “Bình dân học vụ số”, phát huy vai trò Tổ công nghệ số cộng đồng trong hướng dẫn người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, thanh toán không dùng tiền mặt, kỹ năng an toàn thông tin. Tăng cường ứng dụng trợ lý ảo, bàn làm việc số để giảm thao tác thủ công, tối ưu hóa quy trình xử lý công việc.

Năm là, chú trọng bảo đảm an toàn, an ninh mạng; bảo đảm 100% hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước được phê duyệt cấp độ an toàn, triển khai đầy đủ phương án bảo vệ theo mô hình 4 lớp, tăng cường nhận thức và kỹ năng an toàn thông tin cho cán bộ chuyên trách và người dân.

Phó Chủ tịch HĐND tỉnh nhấn mạnh, chuyển đổi số không chỉ là đổi mới công nghệ mà còn là đổi mới phương thức quản lý, vận hành bộ máy theo hướng hiệu lực, hiệu quả. HĐND tỉnh đề nghị UBND tỉnh, các sở, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện hiệu quả Kế hoạch hành động số 328-KH/TU của Tỉnh ủy và Kế hoạch số 348 /KH-UBND của UBND tỉnh; đưa các cam kết tại phiên chất vấn thành sản phẩm, dịch vụ số cụ thể, thiết thực, góp phần nâng cao mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp.

HĐND tỉnh mong muốn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phát huy tinh thần học tập, ứng dụng và làm chủ công nghệ; chuyển từ tư duy “quản lý bằng giấy tờ” sang “quản lý dựa trên dữ liệu”. Đồng thời đề nghị cộng đồng doanh nghiệp và cử tri tiếp tục đồng hành, chủ động trang bị kỹ năng số, cùng chung tay xây dựng xã hội số văn minh, hiện đại.