
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9, báo Dân trí có cuộc phỏng vấn ông Lê Minh Hoan, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội.
Chia sẻ cảm xúc trong không khí mùa thu lịch sử, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan nói:
- Tôi ngắm nhìn màu đỏ, sắc vàng ngập tràn, từ phố phường, đến vùng nông thôn và thấy tình yêu đất nước của trăm triệu người Việt. Có lẽ tình yêu nước đó được khởi đầu từ xa xưa, nhưng có một cột mốc đáng nhớ, đó là những ngày mùa thu lịch sử năm 1945.
Tình yêu đó đến khi Bác Hồ kính yêu tuyên ngôn trước thế giới rằng ở chân trời châu Á có một quốc gia độc lập, có một quốc kỳ phấp phới tung bay khi đất nước nở hoa độc lập, tự do. Tấm quốc kỳ ấy thấm biết bao xương máu của những chiến sĩ cách mạng, của người dân “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Trải qua 80 năm, từ một nước thuộc địa có nền nông nghiệp lạc hậu, không đủ lương thực, phải đối mặt với nạn đói, đến nay, Việt Nam đã là một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng lương thực toàn cầu. Là người gắn bó với ngành Nông nghiệp và nhiều năm là “tư lệnh ngành”, ông đúc kết như thế nào về vai trò của nông nghiệp – nông dân – nông thôn với sự phát triển của Việt Nam ngày nay?
- 80 năm Việt Nam có tên trên bản đồ thế giới cũng là chặng đường 80 năm ngành nông nghiệp Việt Nam, người nông dân Việt Nam gắn liền với vận mệnh của đất nước, và cũng tự hào góp phần kiến tạo vận mệnh của đất nước. Hãy lấy cây lúa, hạt gạo làm biểu tượng cho ngành nông nghiệp, người nông dân và nông thôn Việt Nam.
Từ một đất nước nghèo đói, thiếu ăn, trải qua những cuộc chiến tranh giành độc lập tự do, cây lúa, hạt gạo luôn đi cùng đất nước. Từ “hũ gạo cứu đói” sau ngày đất nước độc lập, cho đến “thóc không thiếu một cân…” cho hai cuộc trường chinh giải phóng dân tộc. Và đến hôm nay, Việt Nam tự hào không chỉ đảm bảo an ninh lương thực cho mình mà còn tự tin trở thành một trong những trung tâm của hệ thống lương thực, thực phẩm thế giới.
Nông nghiệp Việt Nam tự hào là trụ đỡ, là lợi thế, là thước đo mức độ phát triển bền vững của quốc gia.

Từ những bước phát triển lịch sử của lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là từ Đổi mới 1986 đến nay, theo ông đâu là các bài học kinh nghiệm cốt lõi mà chúng ta cần khắc ghi cho giai đoạn phát triển tiếp theo?
- Có lẽ đó là giải phóng những cơ chế ràng buộc, để người nông dân thật sự làm chủ trên thửa ruộng, mảnh vườn, bờ ao, chuồng trại của mình. Chúng ta nhớ lại các nghị quyết của Đảng về khoán 10, khoán 100 đều bắt đầu từ tư duy cởi mở, từ đó lịch sử nông nghiệp chuyển sang trang mới.
Bài học “trao quyền”, khơi gợi khát vọng cho người nông dân làm giàu trên mảnh đất của mình chưa bao giờ cũ, trái lại càng cần thiết cho giai đoạn hiện nay và cả tương lai.
Cũng từ khoán nông nghiệp năm xưa, xuất hiện ở cấp độ địa phương không còn phù hợp với thực tiễn đời sống nông dân, xã hội nông thôn, Đảng đã tổng kết và làm cuộc cách mạng về chính sách nông nghiệp. Ngày nay, vẫn cần đến những sáng kiến, đổi mới từ địa phương, theo tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để kiến tạo không gian nông nghiệp mới.



Khoa học công nghệ được xem là chìa khóa cho tương lai của đất nước nói chung và nông nghiệp nói riêng. Theo ông, việc ứng dụng công nghệ cao sẽ thay đổi căn bản bộ mặt nông nghiệp Việt Nam như thế nào và đâu là lĩnh vực cần được ưu tiên đầu tư nhất?
- Từ một nền nông nghiệp truyền thống chúng ta đã có những bước tiến đáng tự hào. Xoá nạn đói, diệt giặc dốt. Xuất khẩu nông sản lập ra nhiều kỳ tích. Nông thôn mới trở thành hình mẫu cho những quốc gia đang phát triển.
Tuy nhiên, tính cạnh tranh còn nhiều việc phải làm. Ngày nay, cạnh tranh không chỉ còn dựa vào quy mô sản lượng, mà bằng năng suất lao động.
Không thể phủ nhận những thành tựu của những nhà khoa học nông nghiệp đã góp phần chuyển đổi nền nông nghiệp đất nước. Nhưng trong bối cảnh thời đại với những thách thức do biến đổi khí hậu, biến động thị trường, và biến chuyển xu thế tiêu dùng trên thế giới, khoa học, công nghệ càng phải thực sự trở thành động lực cạnh tranh, nâng cao năng suất lao động. Các nhà khoa học nông nghiệp cần đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo để rút ngắn quy trình nghiên cứu đề tài, và sớm đưa các sản phẩm khoa học, công nghệ đến với người nông dân, vì người nông dân.
Nghị quyết 57-NQ/TW được xem là đột phá của đột phá. Luật Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo đã được ban hành. Giờ là lúc các viện, trường, nhà khoa học thể hiện tinh thần dấn thân vì nông nghiệp, vì đất nước.
Khoa học gặp gỡ cuộc sống. Nhà khoa học, nhà nghiên cứu cần xuống phố, về làng để gặp gỡ, trao đổi với bà con nông dân để tìm kiếm và phát hiện những bài toán từ thực tế ruộng đồng, bờ ao, để cùng tìm ra lời giải sát sao và khả thi, đem lại lợi ích và lợi nhuận thực tế, cụ thể cho bà con nông dân trên từng đơn vị diện tích canh tác, sản xuất.

Để chính sách thực sự đi vào cuộc sống, làm thế nào để khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, đồng thời giúp người nông dân tiếp cận và làm chủ được các tiến bộ khoa học kỹ thuật?
- Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao đã có những chính sách được ban hành trong thời gian qua. Theo những gì tôi biết được, nghe được, đã có nhiều tập đoàn, doanh nghiệp mạnh đầu tư vào nông nghiệp, kể cả khu vực FDI. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, khi và chỉ khi vượt qua điểm nghẽn vể tính manh mún, nhỏ lẻ, tự phát, cùng với đó là những chính sách liên quan đến tập trung, tích tụ đất đai nông nghiệp, mới có thể thu hút nhiều dự án mới.
Chúng ta không chỉ tạo điều kiện thu hút công nghệ cao trong nông nghiệp, mà còn thu hút khu vực kinh tế tư nhân ở địa phương, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp nông nghiệp. Có như vậy bức tranh đầu tư vào nông nghiệp mới cân đối, phù hợp với tiến trình chuyển đổi nông nghiệp đất nước. Chúng ta đã có Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ thổi luồng gió mới trong đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn.
Để người nông dân tiếp cận và làm chủ tiến bộ kỹ thuật, như nhiều quốc gia đi trước và thành công là đưa khoa học, công nghệ gần gũi, dễ tiếp cận, không quá tốn kém trong đầu tư hoặc có chính sách tín dụng hỗ trợ đầu tư. Khi và chỉ khi đưa khoa học và công nghệ vào tận thôn xóm, bản làng bằng những hình thức phù hợp, chúng ta sẽ có những dòng chảy tiến bộ kỹ thuật vào từng nông trang, gia trại.
Ngoài ra, cần có chính sách cụ thể, dễ tiếp cận để những “nhà khoa học của nhà nông”, “nhà nông làm khoa học” có những giải pháp hữu ích như đã từng có.


Phát triển bền vững ESG (Environment - môi trường, Social - xã hội và Governance - quản trị doanh nghiệp) đang trở thành xu hướng. Chúng ta cần những chính sách gì để cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng sản lượng nông nghiệp với việc bảo vệ môi trường sinh thái và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu?
- Phải tích hợp khăng khít hai lĩnh vực nông nghiệp và môi trường thành tổng thể hoàn chỉnh, như tên của Bộ mới là Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Trong từng chính sách, từng đề án, từng sản phẩm nghiên cứu khoa học, phải gắn chặt 2 mục tiêu tăng trưởng và bảo vệ môi trường. Nền nông nghiệp giảm phát thải là xu thế không thể đảo ngược. Chúng ta đã cam kết trước thế giới về mục tiêu “Net Zero” vào năm 2050.
Tăng trưởng nông nghiệp và bảo vệ môi trường không thể đặt theo thứ tự trước - sau. Đó phải là hai ẩn số nằm trong cùng một phương trình, một ma trận phát triển.
Nếu chúng ta chỉ quan tâm đến sản lượng, môi trường sẽ suy kiệt. Nếu chúng ta chỉ chăm chăm bảo vệ môi trường mà bỏ mặc sinh kế nông dân, nông nghiệp sẽ chùn bước. Bền vững chỉ đến khi hai yếu tố tưởng chừng đối lập này tìm được điểm cân bằng, cùng nhau nâng đỡ.
Muốn vậy, ngay từ bây giờ phải đẩy mạnh nghiên cứu nông nghiệp tuần hoàn và khuyến nghị những chính sách hỗ trợ cho các dự án nông nghiệp tuần hoàn, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho sản phẩm nông nghiệp tuần hoàn, tiến tới có thị trường riêng cho sản phẩm nông nghiệp tuần hoàn, như dán nhãn sinh thái, chứng nhận dòng tuần hoàn cho từng sản phẩm. Nông nghiệp tuần hoàn không thể là ngành phụ, là phần làm thêm, mà là tư duy kiến tạo ngành kinh tế nông nghiệp tuần hoàn, tích hợp đa giá trị.

Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định. Theo ông, cần có chính sách đột phá nào để nâng cao kỹ năng và kiến thức cho người nông dân?
- Đây là vấn đề sống còn của ngành nông nghiệp, bởi con người luôn là yếu tố quyết định cho sự thành công hay thất bại. Nâng cao năng lực cho người nông dân đã được xem là nhiệm vụ, giải pháp đầu tiên trong Nghị quyết 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Do nhiều nguyên nhân, tầng năng lực và tri thức của nông dân Việt Nam, nhìn chung còn một khoảng cách khá lớn so với những đất nước có nền nông nghiệp tiên tiến.
Để khắc phục thách thức đó, tri thức hoá nông dân, bằng cách lan toả khoa học, công nghệ, chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo. Chỉ như vậy, mới chuyển ngành nông nghiệp thâm dụng tài nguyên, sức lao động, sang ngành nông nghiệp thâm dụng tri thức và đổi mới sáng tạo.
Để nâng cao giá trị cho nông sản Việt, việc xây dựng thương hiệu là vô cùng quan trọng. Vai trò của nhà nước trong việc định hướng và hỗ trợ xây dựng thương hiệu nông sản quốc gia trên thị trường quốc tế nên được thể hiện như thế nào?
- Thương hiệu quốc gia là chuyện lớn, chuyện dài hạn, nhưng là chuyện cần làm, phải làm.
Thương hiệu nông sản không thể có được nếu không cấu trúc lại sản xuất, lấy đặc định của thị trường làm chuẩn mực cho sản xuất. Thương hiệu nông sản chỉ có được và bền vững khi sản xuất theo tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy trình có kiểm soát, đo lường được, chứng nhận truy xuất nguồn gốc được.
Hay nói cách khác, muốn có thương hiệu quốc gia phải chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ, tự phát sang sản xuất quy mô lớn hơn bằng tư duy công nghiệp.

Nhân dịp này, ông có thông điệp và kỳ vọng gì muốn gửi gắm đến thế hệ trẻ và cộng đồng doanh nghiệp về khát vọng và trách nhiệm đóng góp vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn và đất nước?
- Có nhiều chuyên gia nước ngoài khuyến nghị muốn thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp cần dựa vào thế hệ mới, nhất là thế hệ trẻ. Rất vui, trong thời gian qua đã có nhiều bạn trẻ ngược dòng từ đô thị về nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi để khởi nghiệp và khá thành công. Một thế hệ doanh nghiệp nông nghiệp hay gọi là doanh nông trẻ đã mở đường.
Điều đó chứng tỏ sự dấn thân, kiên trì, bền bỉ, không sợ thất bại của những người trẻ, những người không chấp nhận đi theo con đường cũ, mà mở ra con đường mới cho mình. Những người trẻ luôn cháy bỏng nhiệt huyết, tiếp cận tri thức, công nghệ, trí tuệ nhân tạo nhanh hơn, sáng tạo hơn. Không có sông quá dài, không có đình quá cao, những người trẻ đã chứng minh những triết lý đó.
Tôi muốn chia sẻ một điều nhân sự kiện 80 năm đất nước, Bác Hồ mong ước làm sao đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu. Do nhiều hoàn cảnh lịch sử, chúng ta xuất phát điểm chậm hơn nhiều đất nước khác, nền nông nghiệp chúng ta đã có những dấu mốc lịch sử, nhưng hãy nhìn thật lòng, chúng ta vẫn còn khoảng cách không nhỏ so với các nước có nền nông nghiệp tiên tiến. Vì vậy, thế hệ trẻ và cộng đồng doanh nghiệp nông nghiệp, hơn lúc nào hết, phải thể hiện khát vọng và nghĩa vụ với đất nước. Câu nói của một doanh nhân làm tôi nhớ mãi: “Làm nông nghiệp cũng là yêu nước”.
Trong "Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam" ngày 11/4/1946, Bác Hồ đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của người nông dân, của nền nông nghiệp, Bác Hồ nhấn mạnh: "Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế ta lấy canh nông làm gốc... Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào Nông dân, trông cậy vào Nông nghiệp một phần lớn. Nông dân giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh".


Hướng tới một Việt Nam hùng cường, theo ông, đâu là đột phá chiến lược về mặt thể chế và chính sách mà chúng ta cần ưu tiên hàng đầu để giải phóng mọi nguồn lực phát triển trong giai đoạn hiện nay?
- Hãy tạo hành lang để thay đổi từ dưới lên như những khoán 10, khoán 100 năm xưa. Thể chế phải có con đường ngắn nhất đi vào đời sống xã hội. Chính sách không chỉ để phục vụ quản lý xã hội, mà quan trọng hơn là kiến tạo không gian phát triển mới, như tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật.
Thể chế, chính sách cần hướng tới nâng cao năng lực quản trị quốc gia, quản trị địa phương. Nói cách khác, cần kết hợp nhuần nhuyễn quản lý hành chính với quản trị xã hội như lời của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Trân trọng cảm ơn ông!