Nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ - Người tạc âm thanh lên chân dung thế kỷ

Anh Thơ - một trong số ít ca sĩ được nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ khen thể hiện thành công nhất 'Mơ quê' Nguồn: NTV
Sau đêm nhạc Nguyễn Tài Tuệ tại trường quay của Đài Phát thanh - Truyền hình Nghệ An có tiếng vang, tôi nhận được thư của ông với những lời thật trân quý, cảm động: “Cảm ơn anh đã đưa tôi về quê nhà sau 63 năm lưu lạc quê người, sống gian nan vất vả giữa cuộc đời đầy bất trắc và biến động của thời cuộc. Giờ đây giữa quê hương, tôi đã được tiếp đón nồng nhiệt, ưu ái và nhất là được báo cáo về thân thế, sự nghiệp âm nhạc của tôi với tất cả những ai mà tôi nhớ nhung thương mến nhất, và rõ ràng là cũng đồng cảm, thương cảm cho tôi”. Với tôi, đến hôm nay vẫn thấy mình thật may mắn đã có cơ hội được làm quen, rồi trở thành người bạn nhỏ của ông. Mỗi lần được gặp gỡ, trò chuyện cùng ông, tôi lại có những cảm nhận sâu hơn về một tài năng, tâm hồn tuyệt đẹp. Và từ lúc nào, cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của ông đã để lại trong tôi bao điều suy ngẫm về con người, cuộc sống.
Nằm bên tả ngạn sông Lam, làng Thượng Thọ, thuộc tổng Đại Đồng xưa đẹp như miền cổ tích. Làng có lịch sử hơn 450 năm gắn với sự khai phá và phát triển của dòng họ Nguyễn Tài - một trong những dòng họ khoa bảng trên đất Nghệ - Tĩnh. Thuỷ tổ của dòng họ là cụ Nguyễn Hiền, đỗ Trạng nguyên khoa Đinh Mùi, năm 1247, lúc mới 13 tuổi; đến cụ tổ đời 5 của Nguyễn Tài Tuệ là Hoàng Giáp Nguyễn Trung Ngạn - thi đỗ kỳ thi tháng 3 năm Giáp Thìn 1304 đời vua Trần Anh Tông, một quan đại thần có công lao lớn với triều Trần. Ông nội Nguyễn Tài Tuệ là cụ Nguyễn Tài Thực, đỗ Cử nhân năm 1884 đời Kiến Phúc, thọ hàm Kiểm Tịch[1]. Cha ông, cụ Nguyễn Tài Độ, một nhà nho thức thời, biết trân trọng những giá trị tinh hoa của Nho giáo. Ông giỏi nho, y, lý, số, thông thạo về y học cổ truyền, giúp chữa bệnh cho người nghèo trong vùng. Biết uy tín của cụ Nguyễn Tài Độ, Công sứ Nghệ - Tĩnh chỉ định ông làm Bang tá tổng Đại Đồng, làm tai mắt đàn áp phong trào cộng sản. Trước tình thế ấy, một mặt vờ nghe theo lời Tây Đồn Rạng để giữ thân, mặt khác ông luôn bí mật liên lạc và giúp đỡ chi bộ địa phương hoạt động an toàn.
Mẹ ông - cụ Nguyễn Thị Chục sinh ra trong một gia đình Nho giáo. Bà rất yêu ca hát, thuộc Truyện Kiều và hát ví, giặm rất hay. Nguyễn Tài Tuệ nhớ lại: “Những lần mẹ và chị tôi dệt vải, mỗi người một khung cửi, tay đưa thoi và tiếng hát khi đắng đót, khi ngọt lịm ùa vào tâm hồn tôi, khắc sâu trong tâm khảm tôi. Tôi học cha, nghe mẹ. Tôi thấm nhuần tư tưởng khoa học Nho giáo mà cha tôi luôn áp dụng trong đời thường. Cha đã cho tôi cốt cách, bản lĩnh của người con trai giữa thời thế nhiều biến đổi. Chính bởi vậy, dù được đào tạo thời hiện đại, nhưng nhiều người vẫn thấy ở tôi có dáng dấp cụ đồ Nho là vậy”.
Ký ức tuổi thơ của Nguyễn Tài Tuệ là những chiều theo mẹ ra đồng, nghe các cô thôn nữ hát ví, giặm; những đêm trăng vằng vặc theo cha cùng nhóm hát của tổng Đại Đồng, xuôi thuyền trên sông Lam hát thi cùng tổng Cát Ngạn. Thuyền từ chợ Rạng sang mãi bến chợ Thượng Đức Thọ, Hà Tĩnh. Ông nằm trên thuyền, nghe hát thâu đêm, nước mắt chảy lúc nào không hay. Ông thương, một niềm thương chưa thể gọi tên. Có lẽ đó là dấu hiệu của một tâm hồn mẫn cảm, một tài năng âm nhạc ở Nguyễn Tài Tuệ sau này.
Với tầm nhìn thức thời, mong muốn con trai sẽ trở thành một trí thức Tây học, làm được điều gì đó rạng danh dòng họ, quê hương, cụ Nguyễn Tài Độ đã gửi con khi mới tròn 5 tuổi vào Sài Gòn học Trường Chasseloup Laubat, một trường học do người Pháp trực tiếp giảng dạy bằng tiếng Pháp. Năm 1944, Sài Gòn có những biến động, Nguyễn Tài Tuệ trở về quê học Trường sơ đẳng Cao Xuân Dục. Dẫu vậy, 4 năm ngắn ngủi ở Sài Gòn đã giúp ông sớm được học tiếng Pháp, tiếp xúc với nền văn minh Pháp. Thị xã Vinh thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”, ông trở về Thanh Chương học Trường cấp 2 Đặng Thúc Hứa. Thời gian này, Nguyễn Tài Tuệ bắt đầu làm quen với âm nhạc qua những giờ học ở trường, yêu thích những bài hát: Nhớ chiến khu (Đỗ Nhuận), Chiến sĩ Việt Nam (Văn Cao), Tiếng gọi thanh niên (Lưu Hữu Phước),... Ông còn tìm sách tiếng Pháp để học thêm về nhạc lý cơ bản. Trường Quốc học Vinh là nơi Nguyễn Tài Tuệ chập chững viết những ca khúc đầu tiên như: Hò dân công, Xuân ơi sao chưa về,... Từ phong trào ca hát ở trường học, ông quen thân với Nguyễn Trọng Bằng, người mấy năm sau đã giúp ông có bước ngoặt đầu tiên trong cuộc đời gắn với sự nghiệp âm nhạc của mình.
Cơn chấn động lịch sử - xã hội cải cách ruộng đất đã tạo nên những biến cố lớn, gia đình ông rơi xuống tận cùng bĩ cực, tác động sâu sắc đến đời sống, tâm hồn Nguyễn Tài Tuệ. Theo lời cha, ông rời quê ra Hà Nội với bao lưng gạo mẹ vét hết trong nhà và một ý chí cha truyền cho: Phải học, dẫu cho có đi ở cho người ta để có cơm ăn thì cũng quyết đi mà học. Và ông đã bắt đầu cuộc trường chinh của mình như thế.
Sau 10 ngày đi bộ thì tới được Hà Nội, để có cái ăn, Nguyễn Tài Tuệ xin kéo xe ba gác tại bến Phà Đen. Mỗi ngày cật lực cũng đủ tiền để sống chắt chiu trong một tuần. Những ngày còn lại, ông tìm đến thư viện đọc sách về văn học, triết học. Một ngày, nghe tin Đại hội Văn công quân dân toàn quốc tổ chức tại Nhà hát Lớn, ông len lỏi vào được một góc, nghe mê mẩn. Ký ức của những ngày tuổi thơ vui tươi ca hát ùa dậy trong tâm hồn người trai trẻ như những đợt sóng trào. Nguyễn Tài Tuệ tìm gặp người phụ trách xin thử làm ca sĩ, may mắn ông gặp lại Nguyễn Trọng Bằng, lúc đó là Đội trưởng Đội Ca nhạc Đoàn Văn công nhân dân Trung ương. Sau cuộc sát hạch của các nhạc sĩ Văn Cao, Nguyễn Xuân Khoát và Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Tài Tuệ trở thành diễn viên ca hát của Đoàn Văn công nhân dân Trung ương. Mặc dù được khen là ca sĩ có giọng ca đẹp, ông vẫn luôn nung nấu khát vọng sáng tác, như ông từng bộc bạch: “Âm nhạc với tôi là tất cả. Âm nhạc xâm chiếm tâm hồn tôi, đè nặng lên cuộc đời tôi. Âm nhạc là món nợ của tôi với quê hương, đất nước”.
Những năm 1955 - 1960, trong bối cảnh của phong trào Nhân văn - Giai phẩm, Nguyễn Tài Tuệ được biệt phái lên miền núi Tây Bắc, kết hợp đi thực tế cải tạo lao động và giúp đỡ, củng cố Đoàn ca múa Lào - Hà - Yên (Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái). Trong vô vàn gian khó, hiểm nguy, có lúc bị tai nạn suýt chết, ông vẫn miệt mài tìm hiểu văn hoá dân gian, dân ca các dân tộc miền Tây Bắc. Ca khúc Lời ca gửi noọng, hợp xướng Xuân về trên bản, nhất là Tiếng hát giữa rừng Pác Bó ra đời trong những ngày tháng ấy. Vào tuổi 23, vừa khởi đầu thành công, tai nạn đã liền ập đến với ông. Lời ca gửi noọng bị cấm lưu hành vì những ca từ “tắm chung dòng suối”, “cùng chung mái nhà” được coi là thiếu lành mạnh. Ngay cả khi Tiếng hát giữa rừng Pác Bó được Đài Tiếng nói Việt Nam phát nhiều lần theo yêu cầu thính giả, thì có đơn tố cáo Nguyễn Tài Tuệ đã dùng hát then Tày - một loại hình âm nhạc tâm linh, ma quái, mang tính đồng cốt để ca ngợi Lãnh tụ. May mắn, ông được nhà thơ Nông Quốc Chấn, lúc ấy là Vụ trưởng Vụ Văn hoá Miền núi của Bộ Văn hoá bênh vực. Những năm 1961 - 1964, Đài Tiếng nói Việt Nam lấy ý kiến thính giả về bài hát yêu thích, Tiếng hát giữa rừng Pác Bó là ca khúc được nhiều phiếu bình chọn nhất. Nơi quê nhà, mọi người nghe những ca khúc của Nguyễn Tài Tuệ nửa tin, nửa ngờ, còn mẹ ông thì như đinh đóng cột: “Những bài hát đó là của thằng Tuệ nhà tui, không sai mô, từ bé hắn đã làm được những bài hát gần giống như rứa rồi!”.
Sau chuyến điền dã về vùng Yên Thuỷ, tỉnh Hoà Bình, vùng đất đậm đặc văn hoá dân gian của người Mường, nhớ kỷ niệm về chuyến đi thực tế vào giới tuyến Quảng Trị năm trước và trong nỗi nhớ quê nhà, nhớ những đêm trăng ví, giặm mênh mang, cũng là lúc hồn vía của xứ sở căng đầy trong lồng ngực, bật lên bằng những nốt nhạc, lời ca trữ tình, da diết: Nắng tỏa chiều nay, chiều tỏa nắng đôi bờ, anh ơi… Thế nhưng, khi Xa khơi vừa được cất lên bay bổng, trữ tình, lay động con tim bao người qua giọng hát xúc cảm, đồng điệu nỗi đau chia cắt của ca sĩ Tân Nhân, ông lại gặp trắc trở. Có ý kiến phê phán lời ca của Xa khơi không ăn nhập gì với thời cuộc sản xuất và chiến đấu của hai miền. Thêm một lần may mắn cho ông, khi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước khẳng định: “Qua Xa khơi, từ xưa đến nay chưa từng có ai phát triển ví, giặm tốt như Nguyễn Tài Tuệ”. Rồi nhiều cán bộ, chiến sĩ từ chiến trường miền Nam ra cho biết: Xa khơi không chỉ là một khúc hát, mà là một ký ức, một niềm an ủi, động lực tinh thần rất lớn cho đồng bào, chiến sĩ trong những năm tháng khốc liệt nhất của chiến tranh. Và Xa khơi đã xuyên qua không gian, thời gian, là một trong bộ 5 tác phẩm để ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2001. Nhắc lại những chuyện xưa, nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ bình thản: “Tại điều kiện khách quan nó thế thôi!”.
Nhờ những thành công ấy, năm 1967, Nguyễn Tài Tuệ may mắn được cử đi học tại Bình Nhưỡng, Triều Tiên. Được sự thấu hiểu, tận tình giúp đỡ của các nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Phạm Đình Sáu, của Uỷ viên Trung ương Đảng - Thứ trưởng Bộ Văn hoá Hà Huy Giáp, Đại sứ Lê Thiết Hùng..., ông đã vượt qua rào cản về lý lịch gia đình và vượt lên những khó khăn về trình độ đầu vào, trở thành sinh viên của Học viện Âm nhạc Bình Nhưỡng. Để có được tấm bằng xuất sắc, ông đã phải nỗ lực suốt 6 năm ròng, có thời điểm mỗi ngày chỉ được ngủ 3 tiếng. Như một sự bù đắp, những năm tháng ấy, Nguyễn Tài Tuệ được người con gái Hà Nội xinh đẹp Vũ Thị Cẩm Tú, sinh viên Đại học Bách khoa Bình Nhưỡng, đem lòng yêu vì mến mộ tài năng qua những bài hát của ông. Tình yêu của họ đã giúp ông thêm vững vàng theo đuổi sự nghiệp âm nhạc, có được hai người con tài hoa: nghệ sĩ piano Nguyễn Tài Tuấn và nghệ sĩ guitar, ca sĩ chuyên nghiệp Nguyễn Tài Thiều Quang.
Từ những năm đầu sáng tác, Nguyễn Tài Tuệ đã xác định cho mình phương châm “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”. Trước khi rời Học viện Âm nhạc Bình Nhưỡng về nước, ông được các giáo sư quý mến, dặn dò: Em viết 100 tác phẩm mà không có xuất sắc, đồng nghĩa không có gì. Dân gian và dân gian cộng với hiện đại sẽ chắp cánh cho em bay cao trên bầu trời sáng tạo nghệ thuật. Kiên định phương châm ấy, cho đến ngày về với miền mây trắng, gia tài âm nhạc Nguyễn Tài Tuệ chỉ có hơn 35 tác phẩm thanh nhạc và giao hưởng thính phòng. Nhiều tác phẩm của ông đã có sức sống vượt thời gian, trở thành kinh điển, được đưa vào các giáo trình tại nhạc viện và nhiều cuộc thi quốc gia về âm nhạc.
Bằng sức sáng tạo miệt mài, tâm hồn trữ tình sâu lắng, kiến thức uyên bác, Nguyễn Tài Tuệ đã khai thác vốn văn hoá dân gian phong phú và phát triển âm nhạc dân gian lên tầm cao mới. Đi thực tế vùng Tây Bắc, ông có: Lời ca gửi nọong, Suối Mường Hum còn chảy mãi, Đêm Sa Pa; sau này là: Mùa xuân lên nương, mùa xuân lên đường, Nhớ Tây Bắc, Tiếng hát giữa rừng Pác Bó đậm chất Then - Tày. Về đồng bằng Bắc Bộ, ông có nhạc không lời Ngày hội non sông; Khúc tuỳ hứng Trống cơm; Đại hợp xướng sóng Bạch Đằng;... Vào Tây Nguyên, ông sáng tác ca kịch Nữ thần mặt trời với khúc Aria I Pa ơi; bản giao hưởng Giục giã; Thanh xuân cao nguyên. Về miền Tây sông nước, ông có đại hợp xướng: Những năm tháng ghi nhớ; ca khúc Lỡ hẹn; Xôn xao bến nước với giai điệu hò Đồng Tháp trữ tình, mênh mang, sâu lắng...
Dấu ấn đậm nét nhất của Nguyễn Tài Tuệ đó là việc khai thác, phát triển các làn điệu, hồn cốt sâu lắng, trữ tình, bay bổng của ví, giặm và hát đối, làm nên những tuyệt tác Xa khơi, Mơ quê... Sự kết hợp sáng tạo tài tình giữa dân gian và hiện đại, tầm vóc và nghệ thuật âm nhạc trữ tình trong nhiều tác phẩm Nguyễn Tài Tuệ được khẳng định là một trong những hình tượng đẹp nhất của nền âm nhạc đương đại Việt Nam. Nhạc sĩ An Thuyên từng nhận xét: có đến vài chục nhạc sĩ đã kế thừa vốn ví, giặm để viết, nhưng nếu cho chọn một, thì đó là Nguyễn Tài Tuệ. Nhà văn Bùi Tuyết Mai, người có cơ duyên gắn bó với gia đình ông, nhiều năm tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thành công trình gần 500 trang sách Nguyễn Tài Tuệ - cuộc đời và tác phẩm, khái quát: “Không ai hiểu hơn Nguyễn Tài Tuệ cái cách ông đã chưng cất âm nhạc dân gian các dân tộc Việt Nam và phát triển lên để đem đến cho đời những tác phẩm mới. Những nhạc phẩm của Nguyễn Tài Tuệ đã đi rất xa với chất trữ tình lãng mạn, sự tinh tế mang một vẻ đẹp rất riêng biệt mà vẫn bảng lảng hồn cốt dân tộc”.
Quả vậy, chỉ với Mơ quê, ông đã thể hiện trọn vẹn sự đằm thắm: “Anh đến giàn hoa thì hoa kia đã nở” của ví, giặm; chất văn chương bác học “Vầng trăng ai xẻ làm đôi” của Truyện Kiều; vừa phảng phất nỗi niềm tha phương “Quê người đứng ngắm mây lưu lạc” của Nguyễn Bính, lại vừa ảo ảnh khói sương “Quê nhà khuất bóng hoàng hôn” của Thôi Hiệu... Chạnh nghĩ, nếu không có những năm tháng tuổi thơ đắm mình giữa dòng sông quê ví giặm, sống trong một gia đình nho gia danh giá và nỗ lực miệt mài tích góp vốn văn hoá nhân loại, chắc hẳn đời sống âm nhạc Việt Nam đương đại đã không thể có được một nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ tài hoa với những kiệt tác “mười phân vẹn mười” đến thế. Càng thấy tiếc cho bao lứa trẻ ngày nay sinh ra, lớn lên đã ít được thừa hưởng suối nguồn văn hoá mát lành, vô tận của cha ông qua những lời ru ngọt ngào, thấm đẫm chất dân gian của bà, của mẹ.
Với Nguyễn Tài Tuệ, sáng tạo luôn là sự kiên trì, bền bỉ đến mức khổ luyện. Sau gần nửa thế kỷ kể từ ngày Xa khơi ra đời, ông mới thực sự hài lòng khi chọn được một ca từ “sóng liệng” thay cho “sóng chiều”, “sóng liền” rồi “sóng lượn”. “Sóng liệng” vừa có sức nặng biểu cảm, mỹ cảm, vừa có đường nét mạnh mẽ, hoà quyện với sông nước, lại vừa hợp nhất với cách diễn đạt trong ca từ của bài hát. Từ “liệng” không cạn như “liền”, không mỏng như “lượn”, mà sâu lắng hơn, đẹp hơn. Để có được Mơ quê toàn bích, ông đã mất tới 14 năm kể từ ngày đặt bút viết nốt nhạc, lời ca đầu tiên “Người về hò hẹn cùng ai” với bao trăn trở, từ “Nhớ quê”, đến “Hồn quê”... Vợ ông, một người làm nghiên cứu khoa học, rất hiểu và yêu âm nhạc, thấy ông hơn chục năm trời thường ngồi trước cây đàn sửa lại từng ca từ, giai điệu cho Mơ quê, đã xót xa: “Ông ơi, sao ông lại tự làm khổ ông đến thế, tôi nghe thấy rất được rồi mà”. Nhà thơ Hữu Thỉnh nhận xét: “Nguyễn Tài Tuệ là một trong số không nhiều nhạc sĩ viết phần lời rất hay, đến mức có thể gọi là nhà thơ trong âm nhạc, giống như Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Đình Thi,...”.
Đã vào tuổi 85, ông yếu đi nhiều sau cơn ốm nặng. Vừa hồi phục phần nào, ông lại ngồi dậy trước cây đàn đã cũ, mải mê dồn hết tâm sức, vốn liếng văn hoá cả đời mình cho sáng tác mới, hình như ông đang phổ một bài thơ của Xuân Diệu. Căn phòng nhỏ đơn sơ nằm sâu trong ngõ phố Khương Trung, Hà Nội lại vang lên tiếng đàn thăm dò giai điệu của người nhạc sĩ tài hoa, hoà trong tiếng nô đùa của đàn cháu nhỏ. Dường như đó là bến bờ hạnh phúc của một đời người đã đi qua bao sóng gió, buồn vui của thời cuộc.
Nhân lúc ông vui, tôi tranh thủ xin ý kiến ông: hiện nay, làm thế nào để vừa bảo tồn, phát huy, vừa phát triển được dân ca ví, giặm? Ông nói ngay: Khai thác, song không được bê nguyên xi di sản của cha ông, làm như vậy là vô lễ với cha ông. Vấn đề này có lần một số nhạc sĩ ở tỉnh nhà cũng đã hỏi; tôi cũng trao đổi như vậy, nhưng rồi họ bảo khó quá. Còn tôi thì luôn nghĩ, khó mấy cũng cần phải “bắt” cho được nét tài hoa, tinh túy của cha ông lắng sâu trong hồn cốt của ca dao, dân ca xứ sở.
Nhớ có lần ông tâm sự: “Tôi yêu quê hương bằng người yêu quê nhất. Vì yêu quê nên tôi mới có được một Nguyễn Tài Tuệ hôm nay. Tôi luôn tự hỏi: không biết với Xa khơi viết thủa thanh xuân và Mơ quê viết khi đã ngoài “thất thập”, tôi đã phần nào trả được một chút nợ nần với cha ông, với quê hương, xứ sở chưa? Thấp thoáng đâu đây là hình bóng một cậu bé chân quê mau nước mắt và dễ hờn tủi đứng bên bờ sông Lam là tôi chăng?. Chia sẻ với nỗi niềm của người nhạc sĩ, tôi bày tỏ mong muốn được mời ông về thăm lại quê nhà Thanh Văn, về lại chợ Rạng, về xuôi thuyền trên dòng sông Lam lấp lánh trăng quê; để ông lại được nghe câu hò, điệu ví từng thổn thức tâm hồn tuổi thơ và luôn thẳm sâu, da diết trong trái tim ông. Người nhạc sĩ già chỉ lặng im rất lâu bên cây đàn cũ kỹ, ánh nhìn xa xăm…
Tôi cứ nhớ mãi lễ tang nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ vào ngày cuối đông Hà Nội năm ấy. Một lễ tang mà lần đầu tiên trong đời tôi chứng kiến hòa trong không gian, dòng người lặng lẽ, tiếc thương là những lời ca, giai điệu mênh mang, sâu lắng mà xa vắng, yêu thương đến vô bờ: Người về hò hẹn cùng ai, bao năm rời quê, tha phương lưu lạc tận cuối trời.. tiễn biệt người nhạc sĩ tài hoa, giàu nhân cách về miền mây trắng. Đó cũng là lần mà tôi cảm nhận được trọn vẹn nhất bao nỗi niềm thương nhớ mà không bi lụy, xa xót mà thật thanh cao, dân gian mà hào hoa, sang trọng, toát lên từ Xa khơi, Tiếng hát giữa rừng Pác Bó, Mơ quê … Tất cả được hoà quyện bởi tâm hồn mẫn cảm, tài năng sáng láng của người nhạc sĩ, trở thành kinh điển trong kho tàng âm nhạc Việt Nam đương đại.
Nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ bên cây đàn cũ kỹ và bản nhạc Xa khơi bất hủ
Sau ngày giỗ đầu của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ, vợ ông - cô Vũ Thị Cẩm Tú cùng gia đình bày tỏ ý định đưa tủ sách cùng một số hiện vật gắn liền với cuộc đời sáng tác của ông về tặng quê nhà. Như là sự sắp đặt của duyên trời, mấy anh em chúng tôi vừa hoàn thành xong một cơ sở giáo dục cộng đồng ở quê, đã được gia đình nhạc sĩ dành cho niềm hạnh phúc gìn giữ, lan tỏa những giá trị tinh thần mà nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ để lại cho đời, cho quê nhà - nơi trọn cuộc đời mình, ông luôn thao thiết nhớ thương.
Hiểu phần nào về cuộc đời “niềm vui thi thoảng, nỗi buồn mênh mang”, chí lớn vượt lên mọi hoàn cảnh để bồi đắp tri thức; hiểu phần nào tâm hồn sâu lắng, trí tuệ uyên thâm trong cốt cách nho nhã của ông; hiểu hơn về sự bình thản trước bao cùng cực, mà vẫn luôn khát khao vươn tới cái ĐẸP - đẹp của tình người, của non sông đất nước, của quê nhà Xứ Nghệ và truyền thống văn hiến của dân tộc; hiểu thêm về một nhân cách lớn đậm chất đồ Nghệ, nho giáo - dân tộc, mà rất chuyên nghiệp - hiện đại ở ông là điều vô cùng may mắn cho tôi. Và tôi thấy mình thật hạnh phúc khi được chia sẻ may mắn ấy cùng người yêu nhạc, yêu quê về “Một trong những người đã tạc âm thanh lên chân dung của thế kỷ”. Một con người tài hoa, đức hạnh, minh triết như chính tên ông - nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ.
Tháng 12/2023
Nguyễn Như Khôi
[1] "kiểm tịch" (kiềm ký) là một phần công việc của Nội các, có chức năng đóng dấu xác nhận và kiểm tra các văn bản, công văn trước khi trình lên nhà vua.




